Cậu bé đã không vì sợ bị phạt mà nói dối nhà vua. Cậu đã hành động khác với mọi người- nói lên sự thật là thóc không nảy mầm. Chính hành động dũng cảm ấy, Chôm đã được đền đáp xứng đáng. Cậu được truyền ngôi và trở thành một vị vua hiền minh. Cậu bé Chôm thật xứng đáng để chúng ta khâm phục, quý mến và noi gương. 3. Để có tiền cho tôi ăn học, Mẹ làm việc cả ngày lẫn đêm. Một đêm nọ, tôi thức giấc thấy Mẹ đang làm việc dưới ánh nến. Tôi nói: "Mẹ ơi, đi ngủ thôi, muộn rồi, mai làm tiếp". Mẹ vẫn mỉm cười, nói khẽ: "Đừng khóc, con trai của mẹ! Mẹ không đau chút nào đâu!". Tôi hoảng hốt, đôi mắt sáng trong veo của cậu nhóc mà tôi ngỡ tưởng nơi đó hằn những tia lửa, bùng cháy và dội thẳng vào người tôi. Bàn tay tôi ôm lấy khuôn mặt mình, sợ hãi. Có giọt nước mắt vô tình lăn qua kẽ môi, tím tái. … - Sao em không nói dối anh? Nói dối một câu, một lần thôi cũng được mà. Theo các con, mèo mướp đã làm gì để giúp mèo con? Khi gặp cô chủ mèo con kêu thế nào? ↓ CHÚ Ý: Bài giảng này được nén lại dưới dạng RAR và có thể chứa nhiều file . Hệ thống chỉ hiển thị 1 file trong số đó, đề nghị các thầy cô KIỂM TRA KỸ TRƯỚC KHI NHẬN XÉT ↓. Gần đấy có phú trưởng giả giàu nứt đố đổ vách. Nhà hắn tiền ròng bạc chảy đến nỗi thỉnh thoảng hắn lại đem vàng ra phơi nói là cho đỡ ẩm. Một hôm sáo bay qua nhà phú trường giả gặp kỳ hắn đang phơi vàng. Sáo biết là của quý vội sà xuống cắp lấy mấy thoi đưa về cho bố nuôi. Từ đấy bác nông dân sống dễ chịu hơn trước. "Chú Cuội" - Phạm Duy Trăng soi tóc thề, đưa trai gái về Tình ơi! Nửa đường thôn quê, gặp đàn em bé hát vè một câu: Câu thơ chú cuội mà lấy tiên nga, Cuội ơi! "Thằng Cuội" - Lê Thương Bóng trăng trắng ngà Có cây đa to Có thằng Cuội già Ôm một mối mơ Thơ ca [ sửa | sửa mã nguồn] "Muốn làm thằng Cuội" Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi 6YLFx6P. Ngày xưa có một anh chàng trẻ tuổi tên là Cuội. Từ thuở nhỏ, Cuội mồ côi cả cha lẫn mẹ phải đi ở với chú thím. Hắn ta là tay láu lỉnh, đặc biệt về môn lừa người thì rất thành thạo. Một lão trọc phú ở trong miền nghe tiếng đồn về Cuội tỏ vẻ không tin. Một hôm, hắn cho người gọi Cuội đến và bảo – Nghe nói mày lừa người giỏi lắm. Bây giờ tao ngồi ở đây, đố mày lừa tao cho tao ra ngoài cổng thì tao lập tức thưởng cho mày năm quan. Đấy có mọi người làm chứng đấy! Cuội ta gãi đầu gãi tai đáp – Ông ngồi ở đây, lại có đề phòng sẵn thì làm sao mà lừa ông ra ngoài kia được. Nếu ông ra đứng ngoài cổng tôi mới có cách lừa được ông vào nhà. Nghe nói thế, lão trọc phú chạy ra cổng. Nhưng khi đến nơi, Cuội đã vỗ tay reo – Đấy tôi đã lừa được ông ra cổng rồi! Trọc phú bị tẽn vì thua cuộc đành phải y ước đem tiền cho Cuội. Nhà chú thím Cuội có nuôi một con lợn béo. Một hôm nhân lúc mọi người đi vắng cả, Cuội gọi người hàng thịt đến nhà bán rẻ con lợn đó lấy tiền tiêu. Cuội chỉ dặn người ấy giấu kín cho mình và xin lại cái đuôi lợn sống. Hắn đã tìm ra được một mưu để nuốt trôi con lợn. Hắn đào một cái lỗ nhỏ ở đám đất gần chuồng lợn, cắm cái đuôi vào đó rồi nện đất rất chặt. Chờ lúc người thím đi làm về, hắn làm vẻ mặt hốt hoảng, nói – Thím ơi! Thật là số không may. ông gì ấy ông bắt mất lợn nhà ta. Nó xuống âm phủ mất rồi. Rồi Cuội dắt thím ra chuồng lợn, nói tiếp – Nó đã xuống cả hai chân sau rồi, chỉ còn cái đuôi, bây giờ thím hãy giữ lấy cái đuôi đừng cho nó xuống mà cũng đừng giật mạnh kẻo đứt mất là hỏng việc. Cháu sẽ lấy thuổng đào đất xung quanh, may chi bắt nó trở về. Người thím nghe nói tưởng ông gì bắt lợn thật, vừa lo sợ vừa tiếc của, giục Cuội làm nhanh. Cuội lẳng lặng lấy thuổng đào đất. Đất bở ra, cái đuôi không kéo tự nhiên rời khỏi mặt đất. Thấy thế hắn la to lên – Thôi! Thế là lợn xuống âm phủ mất rồi. Còn làm ăn gì được nữa. Một hôm, Cuội cùng chú đi chợ. Cuội xách một cái thúng không. Đột nhiên, Cuội chạy lên trước bỏ quá chú một quãng rồi lấy thúng úp một bãi cứt trâu ở dọc đường. Khi người chú vừa đến nơi, Cuội khư khư giữ chịt lấy thúng, bảo\ – May quá! Cháu vừa úp được một con chim ngói to lắm! Nhưng nếu bây giờ thò tay vào bắt thì nó trượt mất. Vậy chú mau mua về lấy tay lưới giăng chung quanh để bắt cho chắc. Con này mà đánh chén thì tuyệt! Người chú vốn có máu tham, nghe hắn nói thế tưởng thật, vội vã trở về nhà lấy lưới đến giăng bốn bên thúng rất cẩn thận. Mọi người xúm lại xem rất đông. Nhưng khi Cuội giở thúng ra, ai nấy đều phì cười vì chỉ thấy một bãi cứt trâu, chả có chim đâu cả. Riêng người chú bị Cuội đánh lừa, giận thâm gan tím ruột, bèn không đi chợ nữa, dắt Cuội về đánh cho một trận thừa sống thiếu chết. Một hôm khác, Cuội cùng chú đang cuốc cỏ ngoài đồng. Trời nắng như thiêu như đốt. Khát quá, người chú bảo hắn về nhà lấy nước mang ra. Vừa đến nhà, Cuội đã làm vẻ hốt hoảng, nước mắt giàn giụa, miệng mếu nói không ra tiếng – Khốn khổ lắm thím ơi! Chú bị trâu húc lòi ruột gan ra một đống. Hiện đã tắt thở, còn nằm trên cồn… Người thím nghe nói chỉ còn biết kêu trời khóc đất rồi bươn bả ra đồng. Vừa đi vừa ôm mặt than khóc rất thảm thiết. Cuội ta lại lẻn theo đường tắt, ba chân bốn cẳng chạy ra đồng. Sắp đến nơi, hắn cũng làm bộ đau đớn, bảo chú – Chú ơi! Trời hại ta. Thím ở nhà không biết leo trèo thế nào bị ngã từ trên gác xuống, chết tím cả mặt, không một ai biết cả. Người chú nghe nói, tưởng thật, đấm ngực kêu trời rồi chạy về kêu khóc suốt cả dọc đường. Đến khi hai vợ chồng đâm sầm vào nhau mới biết là thằng cháu ác nghiệt đánh lừa. Hai vợ chồng tức giận điên cuồng bèn đan một cái rọ bỏ Cuội vào rồi một mình chồng vác ra sông định vứt xuống nước. Đến bờ sông, Cuội ta cầu khẩn “Cháu có tội với chú thím, chú thím bắt chết cũng đáng. Có điều ở dương gian cháu nói láo kiếm ăn được là nhờ có một quyển sách nói láo bấy lâu nay vẫn gác trên sàn bếp. Nay chú làm ơn nghĩ đến chút tình máu mủ về lấy giùm quyển sách đó đặng cháu mang theo xuống âm phủ kiếm ăn”. Nghe hắn nói có vẻ thảm thiết, người chú tưởng thật, nghĩ bụng, tay hắn mình đã trói, rọ lại buộc chặt không thể trốn đi đằng nào được, bèn tất tả chạy về lấy sách. Đang ngồi co ro trong rọ bỗng trông thấy một thằng hủi đi qua, Cuội gọi giật lại – Này hủi ơi! Tao trước cũng sưng da thối thịt như mày, nhưng trời run rủi cho tao ngồi vào đây, thế rồi tao được người ta đưa xuống nước chạy chữa, rồi lại khiêng lên, bây giờ lành hẳn cả rồi. Mày cứ mở cho tao ra mà xem. Hủi tưởng thật, mở rọ cho Cuội ra, tấm tắc khen phép chữa mầu nhiệm rồi mừng rỡ nói – May cho tôi quá! Thế anh cho tôi ngồi vào đây rồi anh buộc hộ cho tôi với. Có mấy quan tiền xin được nhân thể tôi biếu anh. Được tự do, Cuội chờ cho hủi vào, buộc rọ lại cẩn thận rồi cầm tiền đi thẳng. Lại nói chuyện người chú về nhà tìm mãi trên sàn bếp chẳng thấy gì cả, mới biết là mình lại bị lừa lần nữa, giận quá, hầm hầm trở ra, chẳng nói chẳng rằng đạp rọ lăn xuống sông. Thế là hủi ta mất tích. Nói dối như Cuội Cuội theo dọc sông đến một cái cầu, nhân trời nóng nực mới cởi áo xuống tắm. Mấy quan tiền của hủi cho, hắn sợ để trên bờ có người lấy mất nên mang cả xuống sông. Một ông quan cưỡi ngựa đi qua trên cầu, thoáng thấy có thằng bé lặn ngụp dưới nước, một tay giơ lên cao có cầm cái gì giống như là quan tiền. Quan động lòng tham, dừng ngựa lại hỏi – Bé kia, mày làm gì ở dưới đó? Cuội làm bộ tìm tòi, nói với quan – Tôi mang đi cho cha tôi một thoi vàng, một thoi bạc và mấy quan tiền, lúc đứng chơi ở cầu không may lỡ tay đánh rơi xuống mất cả. Nay tôi lặn lội tìm chỉ được có mấy quan tiền mà thôi. Giờ tôi mà về, cha tôi thì đánh chết. Nói đoạn, Cuội hu hu khóc. ông quan bèn xuống ngựa, cởi quần áo bảo Cuội – Mày bước lên mau đi, để tao còn xuống tắm. Cút mau! ý của hắn là muốn một mình mò tìm, tìm được thì giấu đi một chỗ để số vàng bạc ấy về tay hắn hưởng. Vừa nói hắn vừa lội xuống nước Cuội bước lên bờ vội lấy ngay quần áo của viên quan ra mặc. Quan hỏi – Mày làm gì thế? Cuội đáp – Tôi rét quá, nhờ áo ông mặc đỡ một tí cho ấm. – Thế tên mày là gì? Quê quán ở đâu? – Tôi họ Bái, tên Dưng, ở Bông Lông xã, Ba La huyện. Mặc xong, Cuội chờ lúc quan lặn xuống nước, lên ngựa phi nước đại. Viên quan lặn tìm mấy lần không thấy gì cả, nhìn lên bờ thì đã mất cả ngựa lẫn áo quần. Biết là bị thằng bé lừa, hắn vừa tức giận vừa hoảng hốt. Cuối cùng hắn dùng mấy cái đồ rách của Cuội bỏ lại, che tạm hạ bộ để chạy đi tìm Cuội. Gặp ai hắn cũng hỏi “Có thấy tên Bái Dưng vừa chạy qua đây không?” Nghe hỏi thế mọi người chỉ tủm tỉm cười. Mãi đến khi gặp một người đàn bà, người này đồ hắn là một tên vô lại chọc ghẹo mình, mới quay lại mắng cho một trận. Hắn biết là dại, đành phải im mồm, rồi sau đó nuốt giận lần về nhà. Lại nói chuyện Cuội phi ngựa về nhà chú thím. Cả hai vợ chồng, nhất là người chồng rất lấy làm ngạc nhiên không hiểu tại sao mình đã xô nó xuống sông hai năm rõ mười, thế mà bây giờ nó lại trở về được mà lại ăn mặc đàng hoàng như kia. Hỏi thì Cuội tươi cười đáp – Cháu xuống dưới ấy gặp được tất cả mọi người ông, bà, cha, mẹ, nội ngoại đầy đủ. Cha mẹ cháu giàu có lớn lắm. Nhưng cháu nhớ chú thím quá nên chọn lấy một bộ quần áo, một con ngựa và ít quan tiền trở lên trên này. Rồi Cuội lại nói thêm – Ông bà vẫn nhớ chú thím lắm đấy và có dặn cháu mời chú thím xuống chơi! Hai vợ chồng người chú nghe nói mừng quá, hỏi Cuội – Chúng tao xuống có được không? Cuội trả lời – Có khó gì đâu, chú thím cứ làm rọ y như lúc cháu xuống. Nhưng cháu thì không vác nổi đâu, phải mang ra bờ sông, chui vào rọ rồi cháu sẽ lăn xuống thôi! Người chú vội vàng đan hai chiếc rọ đem ra bờ sông. Đoạn người chú chui vào một chiếc bảo nó buộc chặt lại, vứt xuống. Thấy tăm nước sủi lên sùng sục, Cuội vỗ tay reo – A ha! Chú đang lấy đấy! Nghe nói thế người thím Cuội giục cháu rối rít – Cháu cho thím xuống ngay đi! Người thím lại chui vào rọ để cho Cuội vứt luôn xuống sông. Thế là từ đó Cuội thừa hưởng cơ nghiệp của chú thím để lại. Nhưng Cuội ăn chơi loang toàng chả mấy chốc đã bán hết gia tư điền sản. Hắn muốn đi chơi một phen cho thật xa, bèn sắm sửa lương thực rồi một hôm bỏ nhà ra đi. Cuội đến một vùng rừng núi trùng điệp. ở đây có rất nhiều voi, Cuội bèn nghĩ kế bắt cho được một con. Hắn ta đào một cái hố rất rộng và rất sâu ở chỗ voi hay qua lại. Trên miệng hố có bắc tre nứa lát phên và ghép cỏ rất khéo. Quả nhiên sau đó ba hôm có một con voi bị sa hố đầu chúc xuống dưới, đít chổng lên trời, không cựa quậy được. Cuội dùng đất lấp voi lại chỉ chừa có cái lỗ đít. Và khoét đít voi thành một cái lỗ lớn hơn, rồi cứ để yên tại đó, chỉ thỉnh thoảng đến trông chừng. Hắn bụng bảo dạ “Rồi ta sẽ có một con voi biết bay, đi chu du thiên hạ!”. Sau khi voi chết, quạ và diều ngửi thấy mùi thịt liền rủ nhau tới ăn. Chúng nó chui qua lỗ đít tiến sâu vào thân con voi để rỉa lần thịt ở trong đó. Trước còn năm con mười con, sau dần dần có hàng trăm con ngày ngày chui vào chén thịt và lòng rất thỏa thích. Cuội ta chờ đến lúc thịt voi đã gần kiệt, rình khi chim chóc chui vào khá nhiều, mới thình lình đút nút đít voi lại. Thế rồi Cuội đào đất lên cho cái xác da voi nằm ngay ngắn. Hắn cưỡi lên lưng, dùng gậy đánh nhẹ ở dưới bụng voi. Tự nhiên bầy chim ở trong cái xác da voi bay vụt cả lên, mang cái xác da voi và Cuội lên trời. Cái xác da voi bay giữa không trung qua những núi dài sông rộng làm cho Cuội nhìn không chán mắt. Cuội cứ để cho bay mãi suốt ngày, cuối cùng nhìn thấy một kinh thành rộng lớn, trong đó nhà ngói san sát, người qua lại đông không biết bao nhiêu mà kể. Cuội muốn xuống xem thử cho biết. Hắn vỗ mấy cái trên lưng voi, chim chóc thấy động phía trên thì sợ hãi xếp cánh không bay nữa. Cái xác da voi từ từ hạ xuống. Nó rơi xuống trúng giữa sân rồng có các quan đang làm lễ bái mạng. Nhà vua và tất cả triều thần thấy có một người cưỡi voi từ trên trời xuống thì kinh hãi bội phần, vội vàng sụp xuống lạy Cuội như tế sao. Họ đón Cuội như đón một vị thần vừa giáng hạ. Nhà vua thân đưa Cuội vào nội điện và không dám ngồi ngang hàng. Cuội sung sướng hưởng những cỗ bàn lễ vật của mọi người đem dâng. Khi nghe Cuội nói đến sự mầu nhiệm của con vật, nhà vua cất tiếng run run hỏi “Ngài có thể cho quả nhân cưỡi lên voi đi ngắm cảnh gấm vóc trong thiên hạ được chăng?” Cuội đáp “Được lắm, nhưng cần phải làm hai việc một là nhà vua phải thay đổi quần áo cho tôi, vì con vật nó hay lạ hơi người, hai là khi ra giữa biển phải nhớ mở cái nút đằng sau cho nó uống nước”. Không một ai ngăn cản được lòng ham muốn của nhà vua. Cuối cùng cái xác da voi đưa vua lên không trung. Ra giữa biển, vua nhớ lời Cuội dặn, mở nút đằng đít để cho voi giải khát. Lũ quạ và diều mấy lâu bị giam cầm, nay thấy có chỗ hở lục tục bay ra tất cả. Cái xác da voi rơi xuống biển và chả mấy chốc nhà vua đã lọt vào bụng cá. Còn Cuội mặc áo hoàng bào lên làm vua nước ấy. Câu chuyện “Cậu bé chăn cừu nói dối” là bài học nhắc nhở các bé không nên nói dối cũng như có thái độ trêu đùa quá trớn để người khác mất niềm tin. Một cậu bé chăn cừu ở ngoài đồng với đàn cừu của mình. Một hôm chú nghịch ngợm la to lên như có chó sói đến bắt cừu – Cứu tôi với! Sói! Sói! Dân làng vội vã chạy tới nơi, mới vỡ lẽ là chú bé đã đánh lừa họ. Chú bé làm như vậy hai, ba lần. Rồi sau đó xảy ra việc chó sói đến tấn công đàn cừu thật. Chú bé liền kêu cứu – Có sói! Có sói! Cứu tôi với! Dân làng cho rằng chú bé lại đánh lừa họ, nên không ai đến cứu nữa. Con sói nhìn chú bé không một chút sợ hãi và xông vào ăn thịt cả đàn cừu. Câu chuyện “Cậu bé chăn cừu nói dối” – Truyện ngụ ngôn Aesop – Cậu bé chăn cừu nói dối Thử thách trong truyện “Cậu bé chăn cừu nói dối” Cậu bé chơi trò nói dối đã chịu hậu quả gì? Mọi người đối xử với kẻ nói dối như thế nào? Thử thách trong truyện “Cậu bé chăn cừu nói dối” “Cậu bé chăn cừu nói dối” là một trong những câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng của Aesop, cho chúng ta thấy việc nói dối và lừa gạt người khác có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Từ đó giáo dục các bạn nhỏ phải biết sống trung thực và thành thật. Trong câu chuyện, Cậu bé chăn cừu đã vui đùa không đúng nơi, đúng lúc, cậu lừa dân làng đến giúp mình đuổi chó sói khiến cho họ bức xúc và khó chịu. Chính vì thế, khi con sói thực sự xuất hiện, mọi người đã bỏ ngoài tai lời kêu cứu của cậu, khiến cho con sói xông vào ăn thịt cả đàn cừu. Câu chuyện nhắc nhở chúng ta hãy suy nghĩ cẩn thận về những hậu quả có thể gặp phải trước khi làm một việc gì đó ảnh hưởng đến người khác. Thoạt đầu, cậu bé chăn cừu nói dối tưởng như vô hại, nhưng cuối cùng chính điều đó lại khiến cho cậu phải trả giá bằng việc mất đi cả đàn cừu và uy tín của bản thân. Ghi nhớ Nói dối là nói điều sai sự thật. Kẻ nói dối thường đánh mất lòng tin ở người khác và không được tôn trọng. Nói dối là một tính xấu, chúng ta cần tránh. Nói lời không thật Sẽ mất lòng tin. Con phải giữ gìn Lòng tin vô giá. Nhảy múa cùng chú cuội trên mặt trăng Chàng câm và chú Cuội Những “chú cuội” mặc comple “Sự tích chú Cuội” giải thích vì sao trên cung trăng có hình người ngồi dưới gốc cây đa bằng một câu chuyện đầy tính nhân văn chú Cuội vào rừng biết được bí mật hồi sinh của con hổ bằng lá từ một cây thuốc. Cuội đem về nhà trồng cứu được nhiều người, cứu được cả vợ đã chết. Nhưng từ đó vợ Cuội đãng trí quên lời chồng để cho cây thuốc bay lên trời. Cuội tiếc quá bám chặt vào gốc cây. Cây bay lên cung trăng hàng năm chỉ rơi một lá xuống biển Đông. Cái vỏ truyện là để cắt nghĩa một hiện tượng tự nhiên nhưng thẳm sâu một cái lõi ý nghĩa là khát vọng tái sinh, hồi sinh của con người. Là anh nông dân lao động hiền hậu chất phác hay giúp đỡ người nghèo, từ tay trắng Cuội có tất cả, gia đình, nhà cửa... nhờ cây thuốc quý. Cũng vì nó mà anh ta vĩnh viễn ở trên cung trăng để mọi người chiêm ngưỡng, ngắm nhìn. Đấy là cách dân gian vĩnh cửu hóa cái tốt, người tốt cũng là vĩnh cửu hóa cái khát vọng trường sinh. Ngày xưa các bậc vua chúa cho người vượt biển xa, núi cao, rừng sâu tìm phương thuốc bất tử. Đó là chuyện có thật trong lịch sử. Còn dân gian, với triết lý khỏe khoắn, thực tế thì cây thuốc chỉ có ở trên trời như nói rằng muốn bất tử thì chỉ có cách “lên trời” mà thôi!!! Ngày nay từ cái nhìn phê bình sinh thái học hiện đại có thể thấy truyện còn là bài học về sự hòa hợp con người với tự nhiên, biết ơn tự nhiên... Những con thú hoang dã chính là loài nắm giữ bí mật của tự nhiên nên con người phải biết tôn trọng chúng. Phải biết chăm sóc, giữ gìn, bảo vệ tự nhiên, nếu không chúng sẽ bỏ đi. Chỉ một hành động vô tình vợ Cuội đái vào gốc cây thuốc, thế là nó bay mất. Huống hồ các hành vi tàn nhẫn khác... Những chi tiết ấy giáo dục trẻ em thật giản dị mà thấm thía! Đấy là cổ tích, còn ca dao lại tạo ra một không gian khác tuân theo kết cấu nghệ thuật thể loại của riêng nó “Thằng Cuội ngồi gốc cây đa/ Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời/ Cha còn cắt cỏ trên trời/ Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên/ Ông thì cầm bút, cầm nghiên/ Ông thì cầm tiền đi chuộc lá đa”. Vì là đồng dao vần vè nên đừng bắt bẻ chữ nghĩa, hình tượng... vì mục đích của nó là “cho vui vẻ!”. Nhưng cũng cho thấy một “thằng Cuội” thật dân gian, gần gũi, sớm phải đi làm chăn trâu và rất mải chơi!!! Những cổ tích tương tự như truyện chú Cuội ngồi gốc cây đa có ở mọi nền văn hóa. Những cổ mẫu ấy theo con đường “liên văn hóa” đẻ ra những văn bản “mẫu con”, như bài thơ “Muốn làm thằng Cuội” của Tản Đà “Đêm thu buồn lắm! Chị Hằng ơi!/ Trần thế em nay chán nửa rồi/ Cung quế đã ai ngồi đó chửa?/ Cành đa xin chị nhắc lên chơi/ Có bầu, có bạn, can chi tủi/ Cùng gió, cùng mây, thế mới vui/ Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám/ Tựa nhau trông xuống thế gian cười!”. Các hình tượng “chị Hằng”, “cung quế” có từ văn hóa Trung Hoa, “thằng Cuội”, “cành đa” là “phái sinh” từ cổ tích Việt. Trong văn học nghệ thuật hiện đại nếu liệt kê cũng có tới hàng trăm bài thơ, hàng chục bản nhạc lấy cảm hứng từ hình tượng chú Cuội này! Đi kèm với cổ tích “Nói dối như Cuội” là các thành ngữ “Nói dối như cuội”, “Nói nhăng nói cuội” để chê bai những kẻ ăn nói linh tinh, dối trá. Truyện kể Cuội mồ côi cả cha lẫn mẹ phải đi ở với chú thím. Từ nhỏ Cuội đã nổi tiếng láu lỉnh và lừa người rất giỏi. Một trọc phú không tin gọi đến bảo Mày lừa tao ra ngoài cổng sẽ thưởng năm quan. Cuội nói ông ngồi đây sẵn, lại chủ ý đề phòng thì làm sao mà lừa được. Nếu ông ra ngoài cổng tôi mới lừa được. Ông ta làm theo. Đợi thế Cuội hét toáng lên “Thế là lừa được ông rồi”!!! Những chuyện tương tự như thế có nhiều chứng tỏ Cuội ta lém lỉnh, thông minh thật. Cuội lừa các quan, lừa nhà giàu nhưng cũng lừa cả những người nghèo, thậm chí nhẫn tâm lừa cả người hủi chết thay mình. Cuội lừa cả người thân là chú thím đã nuôi mình... Cú lừa cuối cùng lớn nhất là lừa vua. Cuội lừa cho con voi chết rồi lừa cả đàn chim chui vào bụng voi. Cuội trèo lên lưng voi để đàn chim vỗ cánh đưa voi bay lên trời. Cuội “hạ” xuống sân rồng. Cả vua và quần thần tưởng là người trời bèn tế Cuội như tế sao. Cuội lừa đổi hoàng bào rồi cho vua bay lên trời “ngắm cảnh”. Cuội nghiễm nhiên ngồi vào ngai vàng... Như vậy truyện này khác hẳn với chuyện Cuội ngồi gốc cây đa! Thằng Cuội này đáng trách, đáng chê nhiều hơn là đáng khen. Nó giống với Trạng Lợn ở chỗ may mắn nhưng nhân tính, ứng xử không bằng Trạng Lợn. Nó được kể ra để làm bài học cho trẻ con không hay gì cái chuyện dối người, lừa người, hại người. Theo con đường “vô thức” hình tượng thằng cuội rơi vào và có lẽ còn sống mãi trong cuộc sống hiện đại. Khi nói về ai đó nhất là trẻ trai có hàm ý dè bỉu người ta sẽ nói “Loại cuội!”, “Dối như cuội!”, “Nhăng nhít như cuội!”... Như một hình tượng mang tính phổ quát, “thằng cuội” có trong mọi nền văn hóa, dĩ nhiên có cái tên khác, thành phần xuất thân khác, nhưng về tính cách thì đại để giống nhau. Dân gian miền núi Trung bộ thì thêm nhiều tình tiết Cuội lừa cả hổ, cả voi... Cuội vào rừng chặt mây gặp hổ, hổ hỏi để làm gì, Cuội đáp vì sắp lụt to, chặt về treo họ hàng lên cây kẻo chết đuối. Hổ khẩn khoản nhờ treo cả họ hàng nhà mình... Như thỏi nam châm, theo thời gian, cốt truyện hút vào nó nhiều tình tiết thấy phù hợp. Nhiều khảo dị kể Cuội lừa chú thím bán lợn rồi cắm đuôi xuống đất nói lợn chui xuống đất. Chi tiết này có từ chùm truyện về sự tích vua Đinh Tiên Hoàng lúc nhỏ chăn trâu cho người chú, vua giết trâu đãi các bạn rồi cắm đuôi vào khe đá về báo chú là trâu chui xuống âm ty. Chú lên núi nắm đuôi trâu kéo bị ngã ngửa... Truyện dân gian Ja-rai Tây-nguyên và Khơ-me… cũng có nhân vật tương tự với các tình tiết gần giống với chuyện Cuội người Kinh. Xét kỹ nhân vật Thơ-mênh Chây của người Khơ-me có bóng dáng cả hai nhân vật Trạng Quỳnh và Cuội. Ví dụ vua thách Thơ-mênh Chây lừa được mình. Chây đáp “Việc lừa của tôi là nhờ vào một quyển sách nói dối. Nhưng quyển sách lại để ở nhà. Có nó mới lừa được vua”. Vua sai Chây về lấy. Chây nói đau chân. Vua sai viên quan về lấy không có. Vua nổi giận. Chây ung dung đáp “Vậy là tôi đã lừa được nhà vua rồi!”... Hầu như mọi dân tộc đều có loại truyện “thằng cuội” này. Ở châu Âu nó còn đi vào văn học và hình thành hẳn một thể tài có tên tiểu thuyết bợm nghịch picaresque novel. Loại nhân vật “bợm nghịch” pícaro tiếng Tây Ban Nha trong tiểu thuyết thường xuất thân hạ lưu, ưa phiêu bạt mà trở thành những tên “bợm” thông minh, giỏi lừa gạt... Ở ta hình tượng Xuân Tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng có lẽ sống mãi vì có cái nguồn gốc “xuất thân” từ trong dân gian. Cơ bản hơn là nó có xu hướng kết tinh nhiều đặc trưng của các nhân vật cùng loại. Trong cấu trúc nhân vật này có thằng Cuội, có thằng Bờm, có Thơ-mênh Chây, có cả Trạng Lợn, Trạng Quỳnh, lại có dáng dấp cả nhân vật “bợm nghịch” phương Tây. Có thể có phản biện cho rằng với Xuân Tóc đỏ thì tác giả của nó không chịu ảnh hưởng phương Tây. Nhưng đặt trong hoàn cảnh tiếp biến văn hóa Việt – Pháp rầm rộ thời Vũ Trọng Phụng sống thì thấy nhận định trên có căn cứ. Nhà phê bình Hoài Thanh chẳng đã từng nói mỗi nhà thơ Việt đội trên đầu dăm bảy nhà thơ Pháp đó sao!? Nhưng ít nhất hình tượng thằng cuội bước vào trang văn của hai người nổi tiếng. Về thơ, Nguyễn Khuyến với bài “Vũng lội đường Ngang” 1878, có những câu “Đầu đường Ngang có một chỗ lội/ Có miếu ông Cuội cao vòi vọi/ Đàn bà đến đó vén quần lên/ Chỗ thời đến háng, chỗ đến gối/... Cho nên làng ấy sinh ra người/ Sinh ra dặt những thằng nói dối”. Dựa trên sự kiện có thật ở quê nhà thơ có con đường người ta không sửa thành lầy lội, lâu ngày thành vũng. Gần đó có cây đa, dưới gốc có đống đất to hình thằng cuội nên gọi “đống ông Cuội”. Nhà thơ phê phán cả quan cả dân đều là “cuội” cả vì nói sửa mà không làm để dân khổ! Thời hiện đại, Lê Lựu có hẳn một tiểu thuyết hay có tên “Chuyện làng Cuội” 1993 với cảm hứng phê phán những chuyện “cuội” mang tính bi kịch của một làng nọ từ sau 1945. Một giọng kể châm biếm cùng tài năng kiến tạo những hình tượng nghịch dị nhà văn đã phơi trần mặt trái của quyền lực, nhất là quyền lực lại được trao cho những kẻ dốt nát...Tác phẩm mang tính giáo dục và dự báo cao! Ngày xưa có một anh chàng trẻ tuổi tên là Cuội. Từ thuở nhỏ, Cuội mồ côi cả cha lẫn mẹ phải đi ở với chú thím. Hắn ta là tay láu lỉnh, đặc biệt về môn lừa người thì rất thành thạo. Một lão trọc phú ở trong miền nghe tiếng đồn về Cuội tỏ vẻ không tin. Một hôm, hắn cho người gọi Cuội đến và bảo - Nghe nói mày lừa người giỏi lắm. Bây giờ tao ngồi ở đây, đố mày lừa tao cho tao ra ngoài cổng thì tao lập tức thưởng cho mày năm quan. Đấy có mọi người làm chứng đấy! Cuội ta gãi đầu gãi tai đáp - Ông ngồi ở đây, lại có đề phòng sẵn thì làm sao mà lừa ông ra ngoài kia được. Nếu ông ra đứng ngoài cổng tôi mới có cách lừa được ông vào nhà. Nghe nói thế, lão trọc phú chạy ra cổng. Nhưng khi đến nơi, Cuội đã vỗ tay reo - Đấy tôi đã lừa được ông ra cổng rồi! Trọc phú bị tẽn vì thua cuộc đành phải y ước đem tiền cho Cuội...

truyện chú cuội nói dối