Dưới đây là bài viết câu trần thuật là gì cho ví dụ hay nhất được bình chọn. Chuyển đến nội dung. Nạp tiền cf68 tại CF68 nhanh chóng với nhiều phương thức; Bóng đá tại Sky88 dễ chơi, cơ hội trúng thưởng lớn; May88 Vip hướng dẫn soi kèo châu Á chuẩn nhất mọi Câu trần thuật dạng khẳng định (Positive): Câu trần thuật trong tiếng anh dạng khẳng định là câu mang ý nghĩa khẳng định về sự vật, sự việc, hiện tượng…đang được kể đến. Cấu trúc: Subject (chủ ngữ) + Verb (động từ) + Object (tân ngữ) Ví dụ: The sun rises in the East diễn ngôn trần thuật. giới thiệu về điện tử số tiếp. giới thiệu về lịch sử phát triển của công ty. xác định các mục tiêu của chương trình. điều tra đối với đối tượng giảng viên và đối tượng quản lí. nội dung cụ thể cho từng kĩ năng ở từng cấp độ Nếu chấp nhận xem xét các phát ngôn trần thuật như là phương thức kiến tạo văn bản thông dụng, nhưng cũng mang tính đặc thù, thì vai trò quyết định ở đây là tính sự kiện kép của trần thuật: "Trước mắt ta,- M.M. Bakhtin viết,- có hai sự kiện: sự kiện được kể UÝ BAN NHÂN DAN TiNH KON TUM SÓ:26 /QÐ-UBND CONG HÒA xà HOI CHÜ NGHÎA VIET NAM ÐQc lâp - TV do - H?nh phúc Kon Tum, 'agày ðrqLHP5l. Bé gi¸o dôc vµ µo t¹o TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 NGUYỄN LAM CHÂU NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TẠ DUY ANH LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI, 2010Bé gi¸o dôc vµ µo t¹o TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 NGUYỄN LAM CHÂU NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TẠ DUY ANH Chuyên ngành Lí luận văn học M sè 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. Nguyễn Thị Kiều Anh HÀ NỘI, 2010LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Nguyễn Thị Kiều Anh - người đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Ban Giám hiệu Trường ĐHSP Hà Nội 2, Viện Văn học, Trường ĐH KHXH và Nhân văn, Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch Hà Nội, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Hà Nội, Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Hà nội 2 và các thầy cô giáo Phòng Sau đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2. Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, tạo mọi điều kiện giúp đỡ để luận văn của tôi được hoàn thành. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan những nội dung trình bày trong luận văn này là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Kiều Anh. Luận văn này chưa từng công bố trong bất cứ công trình nào. Nếu những lời cam đoan trên là sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng 10 - 2010 Tác giả luận văn Nguyễn Lam Châu Môc lôc trang më Çu 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 3 3. Mục đích nghiên cứu 7 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 7 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7 6. Phương pháp nghiên cứu 8 7. Những đóng góp mới 8 8. Cấu trúc của luận văn 8 NỘI DUNG 9 Chƣơng 1 Một số vấn đề lí luận về trần thuật học 9 Nghệ thuật trần thuật 9 Khái niệm trần thuật 9 Các yếu tố cơ bản của trần thuật 11 Vai trò của nghệ thuật trần thuật trong xây dựng tiểu thuyết 19 Tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới 21 Hành trình đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam từ 1975 đến nay 21 Những cách tân và thể nghiệm hình thức trần thuật mới 25 Tạ Duy Anh trong bối cảnh văn học đương đại 32 Chƣơng 2 Điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh 36 Điểm nhìn gắn với ngôi kể 37 Sự dịch chuyển điểm nhìn 48 Sự dịch chuyển từ điểm nhìn bên ngoài sang điểm nhìn bên trong 49 Sự dịch chuyển điểm nhìn theo không gian, thời gian 58 Chƣơng 3 Ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh 65 Ngôn ngữ trần thuật 65 Ngôn ngữ người kể chuyện 66 Ngôn ngữ nhân vật 69 Giọng điệu trần thuật 77 Giọng điệu chất vấn, đay đả 79 Giọng điệu giễu nhại 82 Giọng điệu bỗ bã dung tục 89 Giọng điệu trữ tình thiết tha sâu lắng 91 Giọng điệu triết lí, suy ngẫm 93 KẾT LUẬN 99 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO 103 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Lâu nay, tiểu thuyết vẫn được xem là một loại hình tự sự tiêu biểu. Nó mãi tồn tại ở “thì hiện tại chưa hoàn thành” Bakhtin và có vị trí quan trọng trong nền văn học nhân loại. Văn học Việt Nam từ sau 1975 và nhất là sau năm 1986 đã có sự khởi sắc của văn xuôi, trong đó tiểu thuyết vẫn là thể loại chủ đạo, bộc lộ ưu thế của mình trong cách “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, bao quát được những vấn đề cơ bản của đời sống xã hội và con người trong sự vận động, phát triển, đáp ứng những đòi hỏi bức xúc của công chúng đương đại. Văn học Việt Nam thời kì đổi mới đã có những bước chuyển mình so với giai đoạn trước đó. Nếu như ở những năm tiền đổi mới 1975 - 1985, tiểu thuyết vẫn theo hướng nghiêng về sự kiện, về sự bao quát hiện thực trên một bình diện rộng, cảm hứng sử thi vẫn chiếm vị trí đáng kể trong tư duy nghệ thuật của các nhà văn thì bước vào thời kì đổi mới, trong không khí dân chủ của đời sống văn học, tiểu thuyết thực sự bùng phát, thăng hoa, đặc biệt là có sự đổi mới ở tư duy nghệ thuật. Những mạch nguồn truyền thống đã được thay thế bằng những cảm hứng mới, những khám phá sáng tạo. Những trang viết về con người cá nhân, về cuộc sống đời thường với tất cả sự phức tạp và bề bộn đã xuất hiện, thay thế những cảm hứng sử thi truyền thống trước đó. Điều đó trước hết là nhu cầu tự thân của giới văn nghệ sĩ và cũng là phù hợp với đường lối văn nghệ của Đảng được đề ra ở Đại hội Đảng lần VI “Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”, “phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, chúng ta mới có thể vượt qua khó khăn, thực hiện được những mục tiêu do Đại hội lần 2 thứ VI đề ra”. Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khuyến khích văn nghệ đổi mới “…văn hóa, văn nghệ nước ta càng phải đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ cách làm”, “Đảng khuyến khích văn nghệ sĩ tìm tòi sáng tạo, khuyến khích và yêu cầu có những thể nghiệm mạnh bạo, rộng rãi trong sáng tạo nghệ thuật, phát triển các loại hình nghệ thuật, các hình thức biểu hiện”. Hưởng ứng đường lối đổi mới văn học, các tác giả như Lê Lựu, Bảo Ninh, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Thị Thu Huệ, Tạ Duy Anh… đã góp phần tạo nên diện mạo mới của tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới. Trong xu hướng cách tân thể loại tiểu thuyết, Tạ Duy Anh được xem là một hiện tượng nổi bật với nhiều thể nghiệm văn chương táo bạo. Đi sâu tìm hiểu sáng tác của Tạ Duy Anh, chúng tôi nhận thấy, các tác phẩm của nhà văn đã đặt ra những vấn đề nghiêm túc về cuộc sống, chứa đựng những giá trị thẩm mĩ mới mẻ của một cây bút trẻ khát khao sáng tạo. Từ quan niệm về hiện thực, về con người cho đến cách tổ chức truyện, ngôn ngữ, giọng điệu… Tạ Duy Anh đều có những tìm tòi, cách tân mới lạ, góp phần làm phong phú thêm cho nghệ thuật tiểu thuyết Việt Nam. Nghệ thuật trần thuật là một trong những phương diện cơ bản nhất của phương thức tự sự, một yếu tố quan trọng để tạo nên hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Nghiên cứu nghệ thuật trần thuật là một việc làm có ý nghĩa giúp ta có cơ sở để hiểu sâu sắc hơn giá trị của tác phẩm, đồng thời thấy được tài năng và những đóng góp của nghệ sĩ vào tiến trình văn chương. Nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh, một mặt cho ta thấy rõ hơn những cố gắng cách tân nghệ thuật của nhà văn, mặt khác, qua những sáng tác của Tạ Duy Anh, chúng ta có thể nhìn rõ hơn sự vận động của tư duy tiểu thuyết trong giai đoạn hiện nay. 3 2. Lịch sử vấn đề Các sáng tác của Tạ Duy Anh, ngay từ khi mới ra đời đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc cũng như giới phê bình văn học, đã trở thành một trong những tâm điểm của báo chí và là đề tài của nhiều công trình nghiên cứu khoa học. Trước hết phải kể đến là thành công khởi nghiệp của ông - truyện ngắn Bước qua lời nguyền - tác phẩm đoạt giải trong cuộc thi viết về nông thôn do Tuần báo Văn nghệ, báo Nông nghiệp và Đài tiếng nói Việt Nam tổ chức 1989. Nhà thơ Hoàng Minh Châu nhận định rằng đây là truyện ngắn báo hiệu một tấm lòng lớn, một tầm nhìn xa và một tài năng viết về số phận con người. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến cũng cho rằng đây là tín hiệu về một dòng văn học mới, dòng văn học “bước qua lời nguyền” và ở đó là một khát vọng đổi mới, một tiềm năng sáng tạo mới. Tạ Duy Anh đã không làm người đọc thất vọng bằng một hành trình sáng tạo không mệt mỏi. Sau Bước qua lời nguyền, Tạ Duy Anh đã cho ra đời tiểu thuyết Lão Khổ. Đây có thể coi là bước ngoặt trong sáng tác của Tạ Duy Anh bởi nó đã thể hiện một kiểu tư duy khác, một lối viết tiểu thuyết khác. Tác giả Đoàn Ánh Dương trong bài Tiến trình tiểu thuyết Tạ Duy Anh nhìn từ lối viết khẳng định “Không còn là sự nhất phiến, liền mạch của câu chuyện, tiểu thuyết hiện lên bởi một “chuyện chính yếu” và rất nhiều những “chuyện ngoài rìa”, tức về mặt hình thức, Lão Khổ là sự lắp ghép từ các phiến đoạn khác nhau, nhiều truyện ngắn trong một tiểu thuyết. Ý định một cấu trúc như vậy đã khẳng định một tư duy mới về tiểu thuyết, được Tạ Duy Anh mượn lời Đức Thánh nhân để tuyên ngôn “ Ngôi nhà chỉ giá trị ở cái phần không có gì đó sao” [12]. Gần 10 năm sau, năm 1999, tiểu thuyết Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh ra mắt công chúng. Đây là một tác phẩm lạ, khác hẳn so với tiểu thuyết Việt Nam đương thời. Nhà văn đã đạt đến lối viết đa âm hiện đại, mà theo 4 Trần Quang “từ cách đặt vấn đề đầu tiên đến cấu trúc tiểu thuyết, phong cách ngôn ngữ… đều lạ lẫm với những gì chúng ta được biết về dòng tiểu thuyết non trẻ Việt Nam” [16, Đến Thiên thần sám hối năm 2004 thì Tạ Duy Anh đã thực sự trở thành “một hiện tượng văn học nổi bật”, “một gương mặt nhà văn tiêu biểu”. Trong lời giới thiệu cuốn Thiên thần sám hối của Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2004 có đoạn viết “Thiên thần sám hối là một thử nghiệm mới trong sáng tạo, một thử nghiệm đầy day dứt, trong đó những yếu tố phi lí, hoài nghi, liên thông, bất ngờ và mang đậm dấu ấn chủ quan, tạo nên cái riêng của tác phẩm” [1, Tác giả Dương Thuấn trong bài viết Nét đặc sắc của Thiên thần sám hối là không mượn mồm người biết nói cho rằng Thiên thần sám hối ra đời, “Tạ Duy Anh đã chứng minh cho bạn đọc thấy rằng - anh viết theo một lối viết mới - lối viết tiểu thuyết của riêng Tạ Duy Anh”. Tác phẩm “mang một lối viết hoàn toàn hiện đại. Điều đó thể hiện rõ nhất trong cách kể, cách dẫn chuyện, nghệ thuật mê hoặc bạn đọc” [42]. Báo Thể thao và Văn hóa số 47 năm 2004 viết “Có thể gọi ông là nhà văn của đạo đức. Văn chương ông có lúc hiện lên bằng thế sự, đau đáu, riết róng chuyện thánh thiện, tàn ác, liêm sỉ và vô lương… Tiểu thuyết mới nhất của Tạ Duy Anh, Thiên thần sám hối, gọn nhẹ và giản dị về hình thức… chứa đựng những ẩn số lớn về con người và nhân thế” [Tạ Duy Anh 2004, Thiên thần sám hối - Nhà xuất bản Hội Nhà văn tái bản - Báo Pháp luật số 140 năm 2004 cũng đã đánh giá “Tạ Duy Anh là tác giả của những tác phẩm luôn làm bạn đọc giật mình và suy ngẫm bởi những vấn đề gai góc của xã hội hiện đại. Ông cũng là tác giả tâm huyết, trăn trở với số phận con người, nhất là khi họ rơi vào tình trạng khủng hoảng nhân cách. Trong lăng kính đa chiều, Tạ Duy Anh đã nhìn hiện thực một cách lí trí, 5 lạnh lùng nhưng cũng đầy thương xót con người” [Tạ Duy Anh 2004, Thiên thần sám hối - Nhà xuất bản Hội Nhà văn tái bản Tiểu thuyết gần đây nhất của Tạ Duy Anh, Giã biệt bóng tối, cũng là một tiểu thuyết gây sự chú ý trong bạn đọc và giới phê bình. Tiểu thuyết đã được Phòng Văn học Việt Nam đương đại đem ra tọa đàm bởi tính chất đặc biệt của nó trong bối cảnh đời sống văn học đương đại. Có rất nhiều ý kiến đưa ra trong buổi tọa đàm. Những thành công, hạn chế của nhà văn ở tiểu thuyết này được chỉ ra trên tinh thần thẳng thắn. Theo Bích Thu, “Với Giã biệt bóng tối, Tạ Duy Anh không chỉ đổi mới tư duy tiểu thuyết, đổi mới cách nhìn thế giới và con người mà còn đổi mới bút pháp khiến độc giả có thể đọc một mạch và cảm thấy lôi cuốn với tác phẩm” [5, Tôn Phương Lan lại khẳng định “Sự nỗ lực của Tạ Duy Anh thể hiện ở chỗ anh luôn luôn tự làm mới mình từ Lão Khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối cho đến Giã biệt bóng tối. Trong cuốn tiểu thuyết, tác giả đã có những cách tân trong quá trình triển khai đề tài Từ điểm nhìn trần thuật đến giọng điệu giễu nhại, việc sử dụng yếu tố huyền ảo… Chính những yếu tố này đã làm mới sáng tác của Tạ Duy Anh so với đồng nghiệp và cũng làm anh không lặp lại mình trong từng tác phẩm” [5, Tác giả Đoàn Ánh Dương trong bài viết Tiến trình tiểu thuyết Tạ Duy Anh nhìn từ lối viết cũng đưa ra nhận xét “về mặt tư duy nghệ thuật, rõ ràng Giã biệt bóng tối là một bước chuyển về mặt lối viết, đúng hơn là một câu hỏi về lối viết tiểu thuyết bây giờ cần phải được viết nhƧn thuật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh, từ đó thấy được những đóng góp mới trong tư duy nghệ thuật của Tạ Duy Anh ở lĩnh vực tiểu thuyết trong văn xuôi đương đại Việt Nam. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu những lí luận cơ bản về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết. Đây là nhiệm vụ cần thiết, là nền tảng và cơ sở để người viết thực hiện những nhiệm vụ tiếp theo. - Tìm hiểu nghệ thuật trần thuật qua một số tiểu thuyết Lão Khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối, Giã biệt bóng tối của Tạ Duy Anh, qua đó thấy được những nét độc đáo trong nghệ thuật kể chuyện của tác giả. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Với đề tài đã chọn, luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu một số phương diện cơ bản như điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật nhằm làm sáng tỏ những nét đặc sắc về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh. - Phạm vi nghiên cứu Tạ Duy Anh sáng tác ở cả hai lĩnh vực tiểu thuyết và truyện ngắn. Tuy nhiên trong khuôn khổ của một luận văn, chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu ở thể loại tiểu thuyết, trong một phương diện cụ thể, đó là Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh. 8 Để tiến hành nghiên cứu đề tài, chúng tôi khảo sát 4 tiểu thuyết + Thiên thần sám hối 2004, Nhà xuất bản Đà Nẵng. + Lão Khổ 2005, Nhà xuất bản Hội Nhà văn tái bản. + Đi tìm nhân vật 2008 - in trong tập Trò đùa của số phận, Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Nai tái bản. + Giã biệt bóng tối 2008, Nhà xuất bản Hội Nhà văn. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau - Phương pháp phân tích - tổng hợp - Phương pháp thống kê - phân loại - Phương pháp so sánh - đối chiếu 7. Những đóng góp mới Thông qua việc thực hiện đề tài, chúng tôi muốn đề xuất một hướng tiếp cận mới về tiểu thuyết của Tạ Duy Anh từ phương diện trần thuật. Từ đó, chỉ ra sự độc đáo về điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh. Trên cơ sở của những kết quả thu được, tác giả luận văn hy vọng sẽ góp phần giúp độc giả hiểu sâu sắc hơn các giá trị của tiểu thuyết Tạ Duy Anh, đồng thời thấy được những đóng góp của nhà văn đối với tiến trình phát triển của văn xuôi đương đại Việt Nam. 8. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương Chương 1 Một số vấn đề lí luận về trần thuật học Chương 2 Điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh Chương 3 Ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh 9 NỘI DUNG Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TRẦN THUẬT HỌC Nghệ thuật trần thuật Khái niệm trần thuật Ngay từ đầu thế kỉ XX, trần thuật đã là một vấn đề lý thuyết tự sự thu hút sự quan tâm của rất nhiều chuyên gia trên thế giới. Từ đó đến nay lí luận trần thuật đã đạt được một số thành quả quan trọng. Có thể kể đến là các nghiên cứu về tự sự của các nhà hình thức Nga Eikhenbaum; nguyên tắc đối thoại của loại hình học về kĩ thuật trần thuật Anh Mĩ do khởi thảo và tu chỉnh; các nghiên cứu về loại hình trần thuật của các học giả Đức các quan niệm của nhà cấu trúc người Czech các học giả Nga và Cũng như nhiều nước trên thế giới, ở nước ta, trần thuật cũng là một vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đã có nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về thuật ngữ này. Trong phạm vi của luận văn, chúng tôi chưa thể bao quát được tất cả những quan niệm ấy mà chỉ dẫn ra một số định nghĩa mà chúng tôi cho là tiêu biểu và được nhiều người quan tâm hơn cả. Trong bài Việc mở ra môn trần thuật học trong ngành nghiên cứu văn học ở Việt Nam, tác giả Lại Nguyên Ân có viết “Trần thuật narration trỏ phương thức nghệ thuật đặc trưng trong các tác phẩm thuộc văn học tự sự tương tự, trầm tư / méditation / đặc trưng cho văn học trữ tình, đối thoại đặc trưng cho văn học kịch”, “Thực chất của hoạt động trần thuật là kể, là thuật, là cái được kể, được thuật, trong tác phẩm văn học là chuyện” [32, 10 Theo Từ điển thuật ngữ văn học, trần thuật“là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của người trần thuật nhất định” [17, Cùng với quan điểm này là định nghĩa trong Giáo trình lí luận văn học “Trần thuật là kể, thuyết minh, giới thiệu về nhân vật, sự kiện, bối cảnh trong truyện. Trần thuật là hành vi ngôn ngữ kể, thuật, miêu tả sự kiện nhân vật theo một thứ tự nhất định.” [35, Qua đây có thể thấy, khái niệm trần thuật được sử dụng không phân biệt với khái niệm kể chuyện. Chúng đều là những cách dịch khác nhau của từ “narrative” trong tiếng Anh. Tuy nhiên đây là khái niệm gắn bó chặt chẽ với loại hình tự sự cho nên nó thường được nhắc đến trong khi nghiên cứu tự sự. Gắn với những cách gọi này là một số quan điểm đánh giá khác nhau. Bàn về kể chuyện, cho rằng “Kể - là một hành vi trần thuật, và theo nghĩa rộng là cả một tình thế hư cấu bao gồm cả người trần thuật narrateur và người nghe kể narrataire” [32, F. M. Forstes nhận định “Kể chuyện là cách kết hợp những đơn vị ngôn ngữ thành những cấu trúc lớn hơn và trên thực tế mọi việc sử dụng ngôn ngữ thì đều liên quan đến hoặc kéo theo cảm giác về thời gian chiều hướng hành động” [18, Như vậy, trần thuật là một vấn đề được rất nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Qua nghiên cứu, tìm hiểu những quan niệm trên, tựu trung có thể thấy Trần thuật trước hết là một phương thức nghệ thuật đặc trưng trong các tác phẩm thuộc thể loại văn học tự sự, thực chất của hoạt động trần thuật là việc kể lại, thuật lại những sự kiện, con người, hoàn cảnh… theo một thứ tự nhất định, dưới một cái nhìn nào đó. Nghiên cứu nghệ thuật trần 11 thuật giúp ta có cơ sở để khẳng định giá trị của tác phẩm đồng thời khẳng định tài năng và những đóng góp của nhà văn vào tiến trình văn chương. Các yếu tố cơ bản của trần thuật Như trên đã trình bày, trần thuật là vấn đề lí luận thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, vì thế, các yếu tố cấu trúc của nó cũng không ngừng được tìm hiểu và khám phá. Đề cập đến các yếu tố của trần thuật, trong cuốn Bàn về văn học đã chỉ ra rằng “Trong tiểu thuyết hay truyện, những con người được tác giả miêu tả đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả, tác giả luôn luôn ở cạnh họ, mách cho người đọc biết rõ phải hiểu họ như thế nào, giải thích cho người đọc hiểu những ý nghĩ thầm kín, những động cơ bí ẩn phía sau những hành động của các nhân vật được miêu tả, tô đậm thêm cho tâm trạng họ bằng những đoạn miêu tả thiên nhiên, trình bày hoàn cảnh và nói chung là luôn giật dây cho họ thực hiện những mục đích của mình, điều khiển một cách tự do và nhiều khi khéo léo, mặc dù người đọc không nhận thấy những hành động, những lời lẽ, những việc làm, những mối tương quan của họ” [17, Như vậy, M. Gorki đã kể ra các thành phần của trần thuật không chỉ gồm lời thuật, chức năng của nó, không chỉ là kể việc mà nó bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời trữ tình ngoại đề, lời ghi chú tác giả. Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử thì trần thuật gồm sáu yếu tố cơ bản là người kể chuyện, ngôi trần thuật và vai trần thuật; điểm nhìn trần thuật; lược thuật; miêu tả chân dung và dựng cảnh; phân tích, bình luận; giọng điệu. Theo chúng tôi, trần thuật đòi hỏi trước hết phải có người kể. Chủ thể của hoạt động kể phải xử lí tốt mối quan hệ giữa chuỗi lời kể với chuỗi các sự kiện và nhân vật. Và như vậy có hai nhân tố quy định tới trần thuật 12 là người kể chuyện và chuỗi ngôn từ. Từ người kể chuyện ta có ngôi trần thuật, điểm nhìn trần thuật; từ chuỗi ngôn từ ta có ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật, không gian trần thuật, thời gian trần thuật… Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu một số yếu tố tiêu biểu thuộc nghệ thuật trần thuật của Tạ Duy Anh. Vì thế chúng tôi sẽ tiến hành xác lập những khái niệm cơ bản có liên quan đến những vấn đề nằm trong phạm vi nghiên cứu. Điểm nhìn trần thuật Một trong những thuật ngữ được giới nghiên cứu văn học và thi pháp học bàn tới nhiều nhất ở thế kỉ XX là điểm nhìn trần thuật Điểm nhìn nghệ thuật. Vấn đề điểm nhìn trong tiểu thuyết được nhà văn Anna Barbauld nêu ra từ đầu thế kỉ XIX, khi nhận thấy mọi sự đều thay đổi, nếu người ta kể theo ngôi thứ nhất. Đến cuối thế kỉ XIX, vấn đề được Henry James và F. Schlegel trình bày cụ thể hơn. Đầu thế kỉ XX, K. Friedeman 1910 rồi Percy Lubbock 1921 và E. M. Foster 1927 lại đề cập đến điểm nhìn trong tiểu thuyết. Từ những năm bốn mươi trở đi, vấn đề được nghiên cứu sâu với M. Scholer, Tz. Tôđôrốp, G. Genette. Các tác giả từ những năm hai mươi như B. Tômasépxki, M. Bakhtin, V. Vinôgrađốp cùng bàn về điểm nhìn văn bản. Thuật ngữ điểm nhìn được định danh bằng nhiều từ khác nhau trong các tài liệu, chẳng hạn viewpoint, view, point of view, vision… Thực tế cho thấy, các nhà lí luận phê bình cũng sử dụng rất nhiều những thuật ngữ khác nhau để cùng nói về khái niệm này. Chẳng hạn, với Henry James là trung tâm của nhận thức centre of consciousness, Percy Lubbock điểm nhìn Point of view, Jean Pouillon tầm nhìn vision, Allen Tate vị trí quan sát post of obeservation, Cleanth Brooks và Robert Penn Warren tiêu điểm truyện kể focus of narrative… 13 Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng khái niệm điểm nhìn dễ hiểu hơn và nội dung phong phú hơn, nó không chỉ là điểm nhìn thuần túy quang học như khái niệm tiêu cự, tụ tiêu, mà còn mang nội dung quan điểm, lập trường tư tưởng, tâm lí của con người. Theo Từ điển văn học thế giới Dictionnary of the World Literaturre khẳng định điểm nhìn “là mối tương quan trong đó chỉ vị trí đứng của người kể chuyện để kể câu chuyện… Nó có thể chi phối hoặc là từ bên trong hoặc là từ bên ngoài. Ở điểm nhìn từ bên trong, người kể chuyện là một trong các nhân vật; do đó câu chuyện được kể từ ngôi thứ nhất. Điểm nhìn từ bên ngoài được mang lại từ một ý nghĩ từ bên ngoài, của người không phải là một phần của câu chuyện; trong trường hợp này, câu chuyện thường được kể từ ngôi thứ ba” [18, Bàn về vai trò của điểm nhìn trong cấu trúc của loại tác phẩm tự sự, Pospelov cho rằng “Trong tác phẩm tự sự, điều quan trọng là tương quan giữa các sự vật với chủ thể trần thuật hay nói cách khác, điểm nhìn của người trần thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả” [31, Trong công trình Bản chất của tự sự của R. Scholes và R. Kellogg xuất bản lần đầu vào năm 1966, vấn đề điểm nhìn đã được xem xét như là một trong những yếu tố quan trọng tạo dựng cấu trúc tác phẩm và xác lập mô hình truyện kể. Theo R. Scholes và R. Kellogg thì “điểm nhìn là vấn đề chính của nghệ thuật kể chuyện, nó không chia sẻ với thơ ca hoặc là văn học kịch. Ở đây mối quan hệ giữa người kể chuyện - truyện kể và mối quan hệ giữa người kể chuyện - độc giả thực chất là nghệ thuật kể chuyện” [33, Trong bài Quan niệm về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes và R. Kellogg và một số vấn đề khi áp dụng các mô hình lí thuyết phương Tây vào nghiên cứu tác phẩm tự sự của tác giả Cao Kim Lan thì điểm nhìn được hiểu một cách đơn giản “chính là “mánh khóe” thuộc về kĩ thuật, một phương 14 tiện để chúng ta có thể tiến đến cái đích tham vọng nhất sức quyến rũ của truyện kể. Và dù có sử dụng cách thức nào, phương pháp hay kĩ thuật nào thì mục đích cuối cùng của người sáng tạo cũng chỉ là mê hoặc độc giả, buộc anh ta phải đọc” [33, Henry James trong Nghệ thuật văn xuôi 1884 xác lập điểm nhìn chính là “mô tả cách thức tồn tại của tác phẩm như một hành vi mang tính bản thể hoặc một cấu trúc hoàn chỉnh tự trị đối với cá nhân nhà văn” và “Điểm nhìn là sự lựa chọn cự li trần thuật nào đó loại trừ được sự can thiệp của tác giả vào các sự kiện được miêu tả và cho phép văn xuôi trở nên tự nhiên hơn, phù hợp với cuộc sống hơn” [33, Quan niệm này đã đánh dấu một bước phát triển đáng kể trong nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện, kể từ đó, điểm nhìn nghệ thuật được coi là một nhân tố bộc lộ kĩ thuật tiểu thuyết của nhà văn, một mắt xích khách quan, nội tại duy nhất mà theo đó chúng ta có thể đánh giá được “tay nghề” của tác giả. Giáo sư Trần Đình Sử so sánh điểm nhìn với hình ảnh chiếc ống kính camera dẫn dắt người cầm bút khám phá hiện thực và đưa người đọc đi vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Tìm hiểu điểm nhìn thực chất là tìm hiểu một kiểu quan hệ, một phương thức tiếp cận của nhà văn với hiện thực. Điểm qua một số quan niệm trên, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu đều coi điểm nhìn nghệ thuật là yếu tố đặc biệt quan trọng giữ vai trò then chốt trong sáng tạo nghệ thuật. Điều này rất có cơ sở bởi không thể có nghệ thuật nếu không có điểm nhìn, nó thể hiện sự chú ý, quan tâm và đặc điểm của chủ thể trong việc tạo ra cái nhìn nghệ thuật. Trên thực tế, giá trị của sáng tạo nghệ thuật một phần không nhỏ là do đem lại cho người thưởng thức một cái nhìn mới đối với cuộc sống. Sự thay đổi của nghệ thuật bắt đầu từ đổi thay điểm nhìn. Mặt khác, thông qua điểm nhìn trần thuật, người đọc có dịp đi sâu tìm hiểu cấu trúc tác phẩm và phong cách của nhà văn. 15 Ngôn ngữ trần thuật Theo Từ điển thuật ngữ văn học “ngôn ngữ mang tính nghệ thuật được dùng trong văn học”, “là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học” [17, Vì vậy văn học mới được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. M. Go-rơ-ki cũng khẳng định“ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” [17, Một nhà văn đích thực phải tự ý thức về mình như một nhà ngôn ngữ vì ngôn ngữ là “yếu tố đầu tiên quy định cung cách ứng xử” [32, của anh ta, là phương tiện bắt buộc để anh ta giao tiếp với bạn đọc. Đối với văn chương, ngôn ngữ không chỉ là cái vỏ của tư duy mà còn là tài năng, cá tính và quan điểm nghệ thuật, do đó giọng điệu của tác phẩm trước hết cũng là giọng điệu ngôn ngữ. Ở mỗi thể loại văn học, ngôn ngữ lại có những đặc trưng riêng. Nếu như kịch chủ yếu sử dụng ngôn ngữ đối thoại, thơ trữ tình khai thác ngôn ngữ ở phương diện bộc lộ cảm xúc thì văn xuôi tự sự trong đó có tiểu thuyết là ngôn ngữ trần thuật. So với ngôn ngữ thơ ca thì ngôn ngữ văn xuôi có phạm vi hoạt động tự do, dân chủ và linh hoạt hơn. Ngôn ngữ trần thuật là ngôn ngữ đa dạng, ngôn ngữ của nhiều tính cách bao gồm ngôn ngữ của người trần thuật, ngôn ngữ nhân vật và lời nói nước đôi. Trong đó, ngôn ngữ người trần thuật, ngôn ngữ nhân vật giữ vai trò quyết định tạo nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm tự sự. Ngôn ngữ người trần thuật “là phần lời văn độc thoại thể hiện quan điểm tác giả hay quan điểm người kể chuyện sản phẩm sáng tạo của tác giả đối với cuộc sống được miêu tả, có những nguyên tắc thống nhất trong việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện tạo hình và biểu hiện ngôn ngữ” [17, Ngôn ngữ người trần thuật chẳng những có vai trò then chốt trong phương thức tự sự mà còn là yếu tố cơ bản thể hiện phong cách nhà văn, truyền đạt cái nhìn, giọng điệu, cá tính của tác giả. 16 Ngôn ngữ nhân vật “là lời nói của nhân vật trong các tác phẩm thuộc các loại hình tự sự và kịch” [17, Ngôn ngữ nhân vật chính là một trong các phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật. Trong tác phẩm, nhà văn có thể cá thể hoá ngôn ngữ nhân vật bằng nhiều cách nhấn mạnh cách đặt câu, ghép từ, lời phát âm đặc biệt của nhân vật, cho nhân vật lặp lại những từ, câu mà nhân vật thích nói… Dù tồn tại dưới dạng nào hoặc được thể hiện bằng cách nào thì ngôn ngữ nhân vật cũng phải đảm bảo sự kết hợp sinh động giữa cá thể và tính khái quát. Nghĩa là một mặt, mỗi nhân vật có một ngôn ngữ mang đặc điểm riêng, mặt khác ngôn ngữ ấy phải phản ánh được đặc điểm ngôn ngữ của một tầng lớp người nhất định gần gũi về nghề nghiệp, tâm lí, trình độ văn hóa… M. Gorki đã gọi “khẩu ngữ là máu của văn xuôi nghệ thuật”. Ngôn ngữ không chỉ đóng vai trò nuôi dưỡng mà còn làm nên thần thái, đặc tính mĩ học của văn xuôi nghệ thuật. Giọng điệu trần thuật Giọng điệu là một phương diện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật của văn học. Đại văn hào Lep Tônxtôi đã từng nhận xét “Cái khó nhất khi bắt tay viết một tác phẩm mới không phải chuyện đề tài, tài liệu mà phải lựa chọn một giọng điệu thích hợp”. Giọng điệu không những thể hiện bản lĩnh mà còn quyết định bản sắc tác giả. Một tác phẩm thành công là một tác phẩm đa giọng điệu nhưng luôn phải có một giọng chủ âm. Giọng điệu là mối giao lưu cảm nhận giữa người đọc và người kể, thiếu một giọng đặc trưng, tác phẩm sẽ trở nên mờ nhạt. Các nhà nghiên cứu Việt Nam thường coi giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả, thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu 17 tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…” [17, Tác giả Nguyễn Thái Hoà trong cuốn Những vấn đề thi pháp của truyện khẳng định “giọng điệu chính là mối quan hệ giữa chủ thể và hiện thực khách quan thể hiện bằng hành vi ngôn ngữ trong đó bao hàm cả việc định hướng đánh giá và thói quen cá nhân sử dụng ngôn từ trong những tình huống cụ thể” [20, Trần Đình Sử trong Dẫn luận thi pháp học cũng chỉ ra rằng “Giọng điệu giúp ta nhận ra tác giả. Có điều giọng điệu ở đây không giản đơn là một tín hiệu âm thanh có âm sắc đặc thù để nhận ra người nói, mà là một giọng điệu mang nội dung tình cảm, thái độ, ứng xử trước các hiện tượng đời sống” [34, Các nhà nghiên cứu nước ngoài lại phân biệt giọng điệu ra làm “voice” giọng, và “tone” giọng điệu. Trong Từ điển phong cách học, Katie Wales quan niệm “voice” được dùng “để miêu tả ai là người nói trong trần thuật”. “tone” “được dùng với nghĩa một phẩm chất âm thanh đặc biệt nào đó có liên quan đến những cảm xúc hoặc tình cảm đặc biệt nào đó” [18, G. N. Pospelov coi giọng điệu là “cái kiểu cách dùng để kể câu chuyện” [30, Theo nhà bác học Nga M. Bakhtin thì “giọng điệu bao giờ cũng thể hiện thái độ lập trường của chủ thể” [14, Là một yếu tố cốt yếu tạo nên phong cách nghệ thuật, giọng điệu cho phép ta hiểu hơn chiều sâu, sự phong phú của chủ thể sáng tạo. Trên thực tế, giọng điệu vừa là một hiện tượng nghệ thuật kết tinh sự độc đáo của nhà văn, vừa là một hiện tượng có tầm văn hóa ảnh hưởng to lớn đến các thời đại văn học. 18 M. B. Khrapchenco trong Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học cũng đã dành một số lượng trang không ít để nói về giọng điệu. Theo ông, giọng điệu là một yếu tố cơ bản của phong cách nghệ thuật. Một nhà văn tài năng bao giờ cũng phải tạo ra được một giọng điệu độc đáo. M. B. Khrapchenco cũng khẳng định “Đề tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong một môi trường và giọng điệu nhất định đối với đối tượng sáng tác, đối với những mặt khác nhau của nó. Hiệu suất cảm xúc của lối kể chuyện, của hành động kịch, của lời lẽ trữ tình trước hết thể hiện ở giọng điệu chủ yếu vốn là đặc trưng của tác phẩm văn học với tư cách là một thể thống nhất hoàn chỉnh” [21, -168]. Nhìn một cách tổng quát, các ý kiến của M. B. Khrapchenco đã đề cập đến ba vấn đề chính thứ nhất, giọng điệu gắn với cảm hứng chủ đạo, giọng điệu góp phần tăng, giảm hiệu suất cảm xúc của tác phẩm văn chương; thứ hai, trong tác phẩm, có sự xuất hiện của giọng điệu chủ yếu và các sắc điệu bao quanh với tư cách bè đệm; thứ ba, giọng điệu thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau từ ngữ, kết cấu, cách thức tạo nhịp, gieo vần, cách sử dụng môtip và xây dựng hình tượng… Đây có thể coi là một cái nhìn khá đầy đủ và xác đáng về giọng điệu trong tác phẩm văn học nói chung. Điểm qua các khái niệm về giọng điệu, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu đã gặp nhau ở một số điểm đó là kiểu cách dùng giọng để kể, là lập trường quan điểm và nổi bật nhất là “thái độ” đối với hiện tượng được miêu tả. Như vậy giọng điệu trần thuật chính là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, cùng với các phạm trù nghệ thuật khác, nó góp phần không nhỏ tạo nên sự thành công và bản sắc riêng cho tác giả. Chính vì thế khi nghiên cứu sáng tác của một nhà văn không thể không nghiên cứu giọng điệu nghệ thuật của họ bởi đó là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên phong cách nhà văn. vạn hóa của phương thức trần thuật. Văn bản trần thuật là câu chuyện được kể hay chính bản thân hành vi kể sự thể hiện quá trình phát triển từ đơn giản đến phức tạp của phương thức trần thuật. Misen Buytor nhà văn Pháp hiện đại thuộc trường phái Tiểu thuyết mới đã có những ý kiến sâu sắc về vấn đề kể chuyện trong văn xuôi nói chung và trong tiểu thuyết nói riêng “Tiểu thuyết là một hình thức kể chuyện đặc biệt vượt quá giới hạn của văn chương; đó là một trong những phương thức hết sức quan trọng giúp con người nắm bắt được thực tại …. Cái được kể liên quan đến cả những con người, những sự vật, những đồ vật và nơi chốn mà bản thân chúng ta chưa bao giờ đến, nhưng có một ai đó đã mô tả cho chúng ta nghe … Tiểu thuyết là những phòng thực nghiệm kể chuyện… Các hình thức kể chuyện khác nhau cũng tương ứng với các hình thức khác nhau của thực tại” [32, - 380]. Tác giả Dương Tinh Ánh nữ giáo sư văn học Đại học Sư phạm Trùng Khánh và Học viện Tân Văn đã vận dụng khá thành công lí thuyết tự sự học Trích đoạn Đang tải.... xem toàn văn Thông tin tài liệu Ngày đăng 23/03/2015, 0937 . DIẺN nghĩa và HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ 1. Nội dung tư tưởng của Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thống chí 2. Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lê nhất thống chí trên phương. tưởng của Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thống chí Chương 2 So sánh kết cấu Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thống chí Chương 3 So sánh nhân vật trong Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê. Lê nhất thống chí 1 / j0 u y ễ n T k ị x k u ầ n Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đôi với Hoàng Lê nhất thống chí Chương 1 NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CỦA TAM QUỐC DIEN n g h ĩa VÀ HOÀNG LÊ NHẤT THốNG - Xem thêm -Xem thêm Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lê nhất thống chí, Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lê nhất thống chí, , Chương 1 NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CỦA TAM QUỐC DIỄN NGHĨA VÀ HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ, 1 Nội dung tư tưởng của Tam quốc diễn nghĩa, 2 Những ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lê nhất thông chí trên phương diện nội dung tư tưởng, 1 SỰ HÌNH THÀNH THỂ LOẠI VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI KẾT CẤU CHƯƠNG HỒI, 2 SO SÁNH KẾT CẤU TAM QUỐC DIỄN NGHĨA VÀ HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ, 2 Kết cấu đa tuyến, 3 Tính thống nhất trong kết cấu, 4 Phương thức trần thuật, Chương 3 SO SÁNH NHÂN VẬT TRONG TAM QUỐC DIỄN NGHĨA VÀ HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ, 2 Phân loại nhân vật trong Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thông chí, 1 Ngoại hình nhân vật, 2 Tính cách nhân vật, THƯ MỤC SÁCH THAM KHẢO VIỆN HÀN LÂMKHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAMHỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘITẠ HƯƠNG TRANGPHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮNTHẾ SỰ - ĐỜI TƯ TRONG VĂN HỌCVIỆT NAM TỪ SAU 1986Ngành Văn học Việt NamMã số 9. 22 .01 .21LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌCNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC LÊ QUANG HƯNGHÀ NỘI – 2019LỜI CAM ĐOANTôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kếtquả nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo tính chính xác và khoa học tài liệu tham khảo, trích dẫn đều có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu hoàntoàn trách nhiệm về công trình nghiên cứu của Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2019Tác giả luận ánTạ Hương TrangLỜI CẢM ƠNLuận án được hoàn thành, tôi muốn bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc, chânthành đến Lê Quang Hưng, người thầy hướng dẫn khoa học tận tình,luôn sẵn sàng chia sẻ quan điểm, gợi mở nhiều ý tưởng hay, mới lạ, giúp tôicó thêm nhiều tri thức lý luận và phương pháp tư duy, làm việc khoa cũng xin được gửi lời cảm ơn đến Ban giám đốc Học viện Khoahọc xã hội, phòng Quản lý Đào tạo, các thầy cô trong khoa Văn học đãthường xuyên động viên, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình nghiên cứucủa được bày tỏ lòng biết ơn tới Ban giám hiệu Trường Đại học HảiPhòng, Khoa Ngữ văn – Địa lí nơi tôi công tác đã giúp đỡ tôi rất nhiều về mặtthời gian để tôi hoàn thành chương trình học và luận ơn bố mẹ, những người thân trong gia đình, đồng nghiệp, bạnbè,... đã sẻ chia, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thànhluận Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2018Tác giả luận ánTạ Hương TrangMỤC LỤCMỞ ĐẦU..................................................................................................................... 1Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU......................................... niệm chung về phương thức trần thuật trong truyện ngắn thế sự - đời tư..... hình nghiên cứu phương thức trần thuật trong văn xuôi Việt Nam từ sau1986........................................................................................................................... hình nghiên cứu phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư từsau 1986..................................................................................................................... 26Chương 2 TRUYỆN NGẮN THẾ SỰ - ĐỜI TƯ TRONG SỰ VẬN ĐỘNG,PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ SAU 1986................................ tiền đề cho sự phát triển của truyện ngắn thế sự - đời tư trong văn họcViệt Nam từ sau 1986................................................................................................ quát truyện ngắn thế sự - đời tư trong nền văn xuôi Việt Nam từ sau 198656Chương 3 ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT, TỔ CHỨC TÌNH HUỐNG VÀ KẾTCẤU TRONG TRUYỆN NGẮN THẾ SỰ - ĐỜI TƯ TỪ SAU 1986................... kể và điểm nhìn trần thuật.......................................................................... chức tình huống.............................................................................................. thuật tổ chức kết cấu................................................................................ 101Chương 4 NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT CỦA TRUYỆNNGẮN THẾ SỰ - ĐỜI TƯ TỪ SAU 1986............................................................ ngữ trần thuật........................................................................................... điệu trần thuật......................................................................................... 132KẾT LUẬN............................................................................................................ 148DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC Đà CÔNG BỐ CÓ LIÊNQUAN ĐẾN LUẬN ÁN......................................................................................... 151DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 152MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề Trong quan niệm của lí thuyết tự sự học hiện đại thì tiểu thuyết làthể loại tự sự cỡ lớn, có khả năng miêu tả bức tranh hiện thực rộng lớn và sốphận của một hay nhiều người. Trong khi đó, điều làm nên nét khác biệt giữatruyện ngắn với tiểu thuyết hay những thể loại tự sự khác chính là ở chỗ dunglượng ngắn, tập trung miêu tả một sự kiện, một tình huống hoặc một khoảnhkhắc nào đó xảy ra trong cuộc đời của nhân vật. Trong loại hình văn xuôi tựsự, truyện ngắn được đánh giá là một thể loại có tính thích ứng cao với thờiđại nó tồn tại và phát triển. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường nhưngày nay, truyện ngắn phù hợp với thị hiếu của độc giả bận rộn khi họ khôngcó nhiều thời gian dành cho việc nhâm nhi chiêm nghiệm một tác ưu điểm kể trên khiến cho truyện ngắn là một trong những thể loại cóthể đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thời đại đổi mới, của độc giả sau chọn mốc 1986 chúng tôi không chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu tácphẩm mà hơn hết đó là mốc thời gian quan trọng diễn ra Đại hội VI của đầu từ đây văn nghệ thực sự được giải phóng kéo theo sự khai phóng cácthể loại khác về cả nội dung và hình thức biểu hiện. Mặt khác, đây cũng làmốc thời gian ghi nhận những cách tân đáng chú ý của các thể loại văn học,những tác phẩm truyện ngắn thực sự có giá trị cũng bắt đầu ra đời từ xuôi nói chung, truyện ngắn giai đoạn sau năm 1986 nói riêng thựcsự đã tìm được cho mình một hướng đi mới dù đầy chông gai song lại đạtđược những thành tựu đáng ghi nhận. Về nội dung, nó bắt đầu đi sâu vào thếgiới nội tâm của con người để tìm hiểu và khái quát thành tâm lí điển hình củathời đại. Những mảng như chiều sâu tâm linh, cõi vô thức hay sự cô đơn bảnthể, cô đơn nghệ sĩ... đều được nó nghiêm túc khám phá và sáng tạo. Về hìnhthức, khác với quan niệm truyền thống, truyện ngắn sau 1986 không ngừng nỗlực kiếm tìm những phương thức biểu hiện phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của1văn học. Bên cạnh những cây bút vẫn kiên trì cách viết truyện truyền thốngthì một loạt các cây bút với ý thức tự làm mới mãnh liệt đã ra đời nhưNguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương... Ở một phương diện khác, khi lựa chọn đề tài này, chúng tôi căn cứvào chủ đề và cảm hứng của văn xuôi sau 1986 nổi bật lên ba khuynh hướngchính, đó là khuynh hướng sử thi, khuynh hướng thế sự - đời tư và khuynhhướng triết luận. Trong ba khuynh hướng ấy thì khuynh hướng thế sự - đời tưđược đánh giá là khuynh hướng thu hút nhiều người tham gia viết nhất, trởthành niềm say mê hứng khởi sáng tác ở nhiều cây bút truyện ngắn xuất học trước 1975 quan tâm đến nội dung “viết cái gì” của các nhàvăn. Chính vì thế mà sự tỏa bóng của “chủ nghĩa đề tài” khá rộng lớn trongvăn xuôi. Những đề tài như ca ngợi cuộc chiến vĩ đại của dân tộc, những tấmgương người tốt, việc tốt được đề cao còn những đề tài đi sâu vào miêu tả sốphận của cá nhân hay đời sống cá thể riêng biệt thì sẽ bị cấm đoán thậm chínhiều nhà văn bị treo bút trong một thời gian dài vì những gì họ viết ra khôngđúng với tinh thần của thời đại. Song sang đến giai đoạn sau 1986, nhờ lờikêu gọi của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh mà văn học được “cởi trói”. Cảmhứng sử thi tồn tại trong suốt những năm tháng chiến tranh và một vài nămsau đổi mới đã nhường chỗ cho cảm hứng thế sự - đời tư khi con người dầntrở về với cuộc sống thường nhật. Lựa chọn cảm hứng này trong sáng tác, cácnhà văn được mặc sức khám phá thế giới muôn hình muôn vẻ với những nhândạng tồn tại trong hiện thực đó. Mặt khác, nó cũng chi phối đến các phươngdiện khác thuộc trần thuật học trong tác phẩm mà cụ thể là điểm nhìn trầnthuật, tổ chức tình huống, kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu... Có thể thấy đâylà một hướng đi dù không có nhiều cách tân quyết liệt về mặt hình thức nhưngđã khắc tạc trên cây cổ thụ văn chương nỗi đằm sâu của những nhà văn sốngcó trách nhiệm và nặng lòng với đời sống con Nếu như văn học giai đoạn trước năm 1975 quan tâm đến nhà văn2thể hiện nội dung gì trong sáng tác của mình, những nội dung ấy có phù hợpvới lí tưởng của thời đại hay không, có giá trị cổ vũ tinh thần và ý chí của conngười trong thời đại ấy như thế nào... thì giai đoạn từ sau 1986, cái mà vănhọc và công chúng quan tâm là nhà văn - anh đã làm mới “đứa con tinh thần”của mình như thế nào, nói một cách khác là anh đã có thêm tiếng nói, cáchnói gì. Trong xu thế đổi mới, những gì anh viết ra nếu bị coi là cũ kĩ sẽ khôngcó chỗ đứng trong lòng bạn đọc, vì thế nỗ lực cách tân và làm mới trở thànhtuyên ngôn trong sáng tác của họ. Theo đó, nghệ thuật trần thuật trong tácphẩm được đề cao hơn bao giờ hết, nó là “sự trình bày liên tục bằng lời văncác chi tiết, sự kiện, tình tiết, quan hệ, biến đổi về xung đột và nhân vật mộtcách cụ thể, hấp dẫn, theo một cách nhìn, cách cảm nhất định” Trần ĐìnhSử. Trong cấu trúc tác phẩm văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng thìtrần thuật bao gồm các yếu tố cấu thành nên một tác phẩm hoàn chỉnh, đồngthời cũng tạo nên một “chất” khác lạ để phân biệt sáng tác của người này vớingười khác, góp phần tạo nên cái “tầm” của nhà văn. Nhà văn nếu lựa chọnhình thức trần thuật phù hợp sẽ đem lại hiệu quả trong cách truyền tải nộidung, tư tưởng của tác những lí do trên, tìm hiểu Phương thức trần thuật của truyện ngắnthế sự - đời tư trong văn học Việt Nam từ sau 1986 chính là một cách để phântích, đánh giá đầy đủ những đặc điểm, thành tựu của truyện ngắn Việt Namthời kì đổi mới trên các phương diện đối tượng, nội dung phản ánh và hìnhthức nghệ thuật. Bên cạnh đó chúng tôi mong muốn kết quả nghiên cứu củaluận án này sẽ là những tài liệu tham khảo có giá trị thực tiễn đối với công tácnghiên cứu và giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng và phổ Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận Mục đích nghiên cứuTìm hiểu, đánh giá đặc điểm phương thức trần thuật của truyện ngắnthế sự - đời tư trong văn học Việt Nam từ sau 1986 để khẳng định sự thống3nhất biện chứng giữa đối tượng, nội dung biểu hiện với phương thức thể hiệntrong thể loại truyện ngắn, khẳng định rõ thêm thành tựu của văn học ViệtNam thời kì đổi Nhiệm vụ nghiên cứuĐể đạt được mục đích trên, luận án thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau- Đưa ra quan niệm về truyện ngắn thế sự - đời tư từ góc nhìn của líthuyết tự sự học hiện đại, từ sự khu biệt giữa truyện ngắn thế sự - đời tư vớicác khuynh hướng truyện ngắn khác như truyện ngắn theo khuynh hướng sửthi, truyện ngắn theo khuynh hướng triết Chỉ ra những cơ sở cho sự phát triển của truyện ngắn theo khuynhhướng thế sự - đời tư, tái hiện diện mạo của truyện ngắn theo khuynh hướngnày trong văn học Việt Nam từ sau Phân tích những đặc điểm của phương thức trần thuật qua các phươngdiện như điểm nhìn trần thuật, cách tổ chức tình huống, kết Phân tích những đặc điểm của phương thức trần thuật qua ngôn ngữvà giọng điệu trần Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận Đối tượng nghiên cứuLuận án của chúng tôi tập trung nghiên cứu thể loại truyện ngắn trongvăn học Việt Nam hiện đại từ sau 1986 đến nay. Từ những khảo sát trênthực tế tác phẩm, chúng tôi phân loại truyện ngắn thành 3 khuynh hướng sửthi, thế sự - đời tư và triết luận. Cảm hứng sáng tác chủ đạo là tiêu chí đểchúng tôi phân loại truyện ngắn thành các khuynh hướng như vậy. Trong đóchúng tôi đặc biệt quan tâm tìm hiểu sự vận động và phát triển của truyệnngắn thế sự - đời tư, lí giải những đặc điểm riêng của thể tài truyện ngắn nàytrên cơ sở những lí thuyết chung về thể loại. Luận án tập trung vào phươngthức trần thuật bao gồm điểm nhìn trần thuật, tổ chức tình huống, kết cấu,ngôn ngữ và giọng điệu trần Phạm vi nghiên cứuThực hiện đề tài này, chúng tôi dành sự quan tâm đến một số tập truyệnngắn, tuyển tập truyện ngắn đã được xuất bản của các nhà văn tiêu biểu nhưNguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư,Nguyễn Thị Thu Huệ... và một số cây bút trẻ có truyện ngắn đạt giải từ sau1986 đến nay đã được in trong các tuyển ra, trong quá trình thực hiện đề tài, để thấy được sự vận động vàphát triểnphát triển của nó trong mấy mươi Phương pháp thống kê - phân loạiPhương pháp này được sử dụng trong quá trình khảo sát các tác phẩmtruyện ngắn thế sự - đời tư tiêu biểu từ sau 1986 nhằm có những cứ liệu xácđáng cho các luận Đóng góp mới về khoa học của luận án- Luận án cung cấp cái nhìn hệ thống về truyện ngắn Việt Nam giaiđoạn sau 1986 trong bước chuyển của lịch sử văn học, góp phần khẳng địnhmối quan hệ biện chứng giữa nội dung phản ánh, kiểu nhân vật với phươngthức trần thuật trong thể loại Luận án là công trình đầu tiên tìm hiểu và phân tích một cách tươngđối toàn diện, có hệ thống về đặc điểm phương thức trần thuật của truyệnngắn viết theo khuynh hướng thế sự - đời tư trong văn xuôi Việt Nam từsau Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận Ý nghĩa lí luậnBằng việc phân tích phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đờitư trong văn học Việt Nam từ sau 1986, luận án góp phần làm sáng tỏ ý nghĩacủa lí thuyết tự sự học hiện về mặt cấu trúc loại hình, từ việc phân tích, đánh giá truyện ngắnthế sự - đời tư luận án góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa quan niệmnghệ thuật về hiện thực, con người với các phương diện thuộc thuộc phươngthức trần thuật của thể Ý nghĩa thực tiễnVới đề tài này, luận án đã khảo sát, khái quát, tổng kết bước đầu cáckhuynh hướng truyện ngắn Việt Nam từ sau 1986 trong đó nổi bật là khuynhhướng thế sự - đời tư. Từ đó, làm sáng tỏ sự vận động, phát triển, thành tựu vàhạn chế của thể loại truyện ngắn trong văn học Việt Nam hiện cạnh đó, luận án có thể trở thành tài liệu tham khảo cho nhữngngười làm công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập, những ai quan Cấu trúc của luận ánNgoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận án có nội dung chính gồm 4chương như sauChương 1 Tổng quan tình hình nghiên cứuChương 2 Truyện ngắn thế sự - đời tư trong sự vận động, pháttriển của văn học Việt Nam từ sau 1986Chương 3 Điểm nhìn trần thuật, tổ chức tình huống và kết cấutrong truyện ngắn thế sự - đời tư từ sau 1986Chương 4 Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật của truyện ngắn thếsự - đời tư từ sau 19867Chương 1TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨUTừ điển thuật ngữ văn học định nghĩa “Truyện ngắn là tác phẩm tự sựcỡ nhỏ. Nội dung của truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đờisống đời tư, thế sự hay sử thi nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắnđược viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ” [94; hành cùng sự phát triển của xã hội, truyện ngắn là một trongnhững thể loại có lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp. Sự biến động của xãhội qua từng thời kì lịch sử phát triển của loài người kéo theo sự vận động vàbiến đổi của truyện ngắn thế giới nói chung, truyện ngắn Việt Nam nói đầu thế kỉ XX đến nay, truyện ngắn hiện đại Việt Nam có những thay đổitheo hướng tích cực để thích ứng với sự đổi thay của thời đại, đặc biệt từ thờikì sau 1986, nó đã chứng tỏ là một thể loại có khả năng dung hòa được vớinhịp sống hối hả và bao quát được những vấn đề đặt ra trong xã hội ngày Quan niệm chung về phương thức trần thuật trong truyệnngắn thế sự - đời Khái niệm truyện ngắn thế sự - đời tưDo tác động của hoàn cảnh chiến tranh, nội dung ưu tiên hàng đầu trongcác tác phẩm văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 là những biến cố lịch sửtrọng đại, nhiệm vụ của đời sống chính trị. Khuynh hướng sử thi vì thế nổi lênnhư một khuynh hướng tiêu biểu và duy nhất của văn học giai đoạn này. Sauđổi mới, văn xuôi từng bước thoát ra khỏi áp lực của “chủ nghĩa đề tài” bằngkinh nghiệm cá nhân đột phá vào các vùng hiện thực mới, chủ quan hóa cáchnhìn đối với những hiện thực vốn quen thuộc. Giá trị tác phẩm bây giờ khôngcòn phụ thuộc vào đề tài nữa mà do cách xử lí nghệ thuật của nhà văn quyếtđịnh. Tương ứng với các mảng hiện thực lớn cùng cảm hứng sáng tác của nhàvăn là những khuynh hướng sử thi, thế sự - đời tư và triết luận. Trong luận ánnày, chúng tôi đặc biệt dành sự quan tâm đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu truyện8ngắn thế sự - đời tư, lí giải những nguyên nhân hình thành, phát triển và sứchút mạnh mẽ của khuynh hướng này đối với các nhà sáng điển Tiếng Việt Hoàng Phê chủ biên định nghĩa thế sự là “việcđời”. Theo cách hiểu khái quát đó truyện ngắn thế sự là truyện ngắn viết vềcuộc sống đời thường, về thế thái nhân tình, về con người của thực truyện ngắn viết theo khuynh hướng này chú ý khẳng định giá trị thẩmmĩ của cái đời thường, khám phá mọi phức tạp, éo le và cả cái cao quý trênhành trình đi tìm sự sống và hạnh phúc của con người. Thế sự làm cho truyệnngắn giàu tính thời sự, mở rộng phạm vi phản ánh của hiện thực đời là một thể tài đã có truyền thống trong lịch sử văn học dân tộc. Từ cácbậc đại thi hào xưa như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến đãkhéo léo đưa vào trong sáng tác của mình bức tranh xã hội đương thời với sựthối nát của giai cấp thống trị và nỗi bi thương của những người dân nghèokhổ. Khuynh hướng này chỉ bị chững lại những năm 1945 - 1975 do văn họcdành sự ưu tiên cho những tác phẩm mang khuynh hướng sử thi, phù hợp vớihoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Sang đến giai đoạn 1975, cảm hứng này tiếptục được “phục sinh” và có sức lan tỏa mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Bàn về thếsự là bàn đến các nội dung đặc tả bức tranh hiện thực đời sống muôn mặthiện thực lớn - cuộc sống lao động kiến thiết và khôi phục đất nước; hiệnthực nhỏ - cuộc sống hàng ngày của mỗi con người đồng thời đặc sắc củanhững sáng tác viết theo khuynh hướng này còn ở chỗ nó phát hiện ra nhữngkhiếm khuyết trong cơ chế xã hội thời mở cửa, dóng lên hồi chuông cảnh báokịp thời qua những mảnh hiện thực bị cắt rời, nham tư hay đời sống cá nhân được hiểu là “cuộc sống của một cá nhân,đặc biệt được xem như toàn bộ sự lựa chọn cá nhân góp phần nhận dạng tínhcách một người” Theo Từ điển Wikipedia tiếng Việt. Truyện ngắn mang cảmhứng đời tư là truyện ngắn về số phận con người cá nhân. Nó hướng đến đờisống tinh thần phong phú, phức tạp của con người với những ham mê, dục9vọng thường tình, những khắc khoải về số phận, những cảm xúc gần gũi, đờithường. Những tác phẩm thuộc khuynh hướng này thường lấy đề tài trực tiếptừ đời sống hiện tại. Điểm tựa cho kết cấu không phải là các biến cố lịch sửmà là những chuyện hàng ngày, những quan hệ nhân sinh muôn thuở, nhữngứng xử có tính phổ biến hay đột biến của con người. Qua đó nhà văn săn tìmý thức về nhân cách. Con người cá nhân, có lẽ, đã xuất hiện trong các thiphẩm của các thi nhân từ rất lâu và có thể xem giai đoạn 1930 - 1945 với sựxuất hiện của phong trào Thơ mới đã đánh dấu sự thức tỉnh và ý thức về bảnthể mạnh mẽ nhất “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất - Không có chi bè bạnnối cùng ta” Xuân Diệu. Giai đoạn 1945 - 1975 do hoàn cảnh đặc thù conngười cá nhân chìm khuất nhường chỗ cho con người cộng đồng, lịch sử gọitên những người anh hùng mang những nét đẹp thời chiến trận, sử thi phủ lêncác sáng tác văn học tấm áo choàng của lịch sử, số phận của mỗi cá nhân nhưmột lẽ tất yếu, trùng khít với số phận của cộng đồng. Câu hỏi “ta vì ai?” vì thếđược ưu tiên hàng đầu. Khi cuộc sống trở về nhịp quay bình thường như nóphải có, văn học trở về với đời sống cá nhân đó là một quy luật tất yếu. Vănhọc sau 1975 lấy con người làm tâm điểm soi chiếu lịch sử. Con người từđiểm nhìn lí tưởng hóa được đặt vào điểm nhìn thế sự, đời tư. Dòng chảy đờithường ở thời đại ý thức cá nhân phát triển tạo cho con người một diện mạomới; phong phú, phức tạp, nhiều bí ẩn và nhà văn trong nỗ lực khám phá,chiếm lĩnh đời sống nhận ra mỗi cá thể là “một tiểu vũ trụ” không thể biết hết,không thể biết trước. Để con người hiện diện với các quan hệ nhân sinh cụthể, nhiều chiều, đó là cách xử lí phổ biến. Con người đời thường với nhữngẩn mật, khuất lấp hiện lên muôn màu muôn vẻ thực trạng nhân tính suy thoái,con người ham mê dục vọng tầm thường, con người chìm sâu vào hào quangquá khứ... nhưng tiêu biểu và nổi bật hơn cả chính là con người tìm được cáchkhẳng định giá trị tự thân của mình, nói khác đi là con người có giá trị tự được xem như là một trong những phát hiện mang tính nhân bản về con10người của các nhà văn giai đoạn những điều đã trình bày ở trên có thể hiểu truyện ngắn thế sự - đờitư là truyện ngắn viết về cuộc sống hàng ngày và số phận của mỗi con ngườicá nhân trong dòng chảy vô thường ấy. Sáng tác theo khuynh hướng thế sự đời tư, người cầm bút xem cuộc sống hàng ngày đang diễn ra là đối tượngsinh động và thú vị, số phận con người cá nhân là một đích đến của vănchương. Nói cách khác, nó chứng tỏ tinh thần nhân bản và ý thức dân chủ củanhà văn. Sự phát triển của khuynh hướng văn học này gắn với những thay đổitrong quan niệm về đối tượng, chức năng của văn chương, những thay đổitrong hứng thú sáng tác của nhà văn và tâm thế tiếp nhận của công tài này không phải đến văn học sau 1975 mới có mà nó đã manh nha hìnhthành thậm chí có thời kì phát triển đạt được nhiều thành tựu trước đó. Tuynhiên sự vận động của thể tài truyện ngắn này thăng giáng theo nhịp chuyểndời của lịch sử và để đến thời kì sau đổi mới, hội tụ đầy đủ các yếu tố thuậnlợi, nó một lần nữa được phục hồi và hứa hẹn sẽ có những thành tựu đángmong luận án, chúng tôi sử dụng khái niệm truyện ngắn thế sự - đời tưnhư một công cụ khảo sát diện mạo một thể loại văn học dưới góc nhìn thểtài. Cho nên, truyện ngắn thế sự - đời tư trước hết cũng mang những đặc trưngthi pháp của thể loại truyện ngắn, một thể loại tự sự hiện đại độc đáo. Thứnữa, nó khai thác thể tài thế sự - đời tư dưới một góc nhìn, cách tiếp cận riêng,mang hơi thở của lịch sử, thời đại, những tìm tòi, sáng tạo và tư tưởng riêngcủa nhà văn. Xét đến cùng, truyện ngắn thế sự - đời tư cũng là một loại hìnhdiễn ngôn tự sự gắn liền với thế giới quan, nhân sinh quan, sản phẩm của mộthình thái ý thức xã hội, lịch sử mà nền tàng là tinh thần dân chủ, nhân văn, đốithoại, hoài nghi. Thực tế đây không hẳn là một khái niệm mới mà chúng tôi đinghiên cứu một thể loại trong tiến trình lịch sử văn học, chịu ảnh hưởng trongcác tiêu chí phân chia của trường phái Pospelov. Với khái niệm công cụ này,11chúng tôi sẽ có dịp tìm hiểu kỹ hệ thống thi pháp của thể tài truyện ngắn nàyở nhiều cấp độ, phương diện như trần thuật, kết cấu, ngôn ngữ, để thấy nhữngthành tựu, đóng góp, cả hạn chế, nhược điểm, nhưng quan trọng hơn là sự vậnđộng, phát triển của thể tài trong lịch sử văn học và sự sáng tạo của các nhàvăn đổi Quan niệm chung về phương thức trần thuậtVới bất cứ tác phẩm nào thuộc loại hình tự sự truyện thì trần thuậtluôn là yếu tố then chốt, phương diện cơ bản. Theo đó, trần thuật thường đượchiểu là “việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sựkiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định”[94; Cho nên, có thể nói rằng trần thuật chính là việc tổ chức tácphẩm tự sự theo một điểm nhìn, cách nhìn nhất định. Trần thuật gắn liền vớitất cả các yếu tố trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm như bố cục, kết cấu,tổ chức không gian, thời gian, ngôn ngữ, giọng điệu. Nó là một hệ thống tổchức phức tạp “nhằm đưa hành động, lời nói của nhân vật vào đúng vị trí củanó để người đọc có thể lĩnh hội theo đúng ý định tác giả mối quan hệ giữacâu chuyện và cốt truyện” [94; trần thuật bao giờ cũng gắn với một người kể và điểm nhìn nhấtđịnh. Một tác phẩm tự sự có thể được kể theo người kể chuyện ở ngôi thứ ba,đứng ngoài quan sát, ngôi thứ hai hoặc ngôi thứ nhất, tự thuật. Điểm nhìn trầnthuật có thể thay đổi linh hoạt, đan cài, di chuyển, luân phiên trong một tácphẩm. Có nhiều cách trần thuật gắn với người trần thuật như trần thuật ở ngôithứ ba khách quan, trần thuật theo ngôi thứ nhất do một nhân vật trong tácphẩm đảm nhiệm, trần thuật bằng dòng ý thức, độc thoại nội tâm. Mỗi điểmnhìn này gắn với một tọa độ không gian, thời gian tạo thành trường nhìn, thểhiện cách nhìn, cách cảm, lập trường, tư tưởng của người trần thuật và của tácgiả. Mỗi sự thay đổi sẽ đem đến một sắc thái, bình diện miêu tả, tái hiện, haytái tạo thế giới khác nhau, đem đến cảm xúc, ý nghĩa đa tầng lớp. Ngoài ra,12cách thành phần trần thuật còn gồm không gian, thời gian, giọng điệu, ngônngữ, tiết tấu, nhịp điệu… Những yếu tố này tương tác, kết hợp hài hòa tạo nêncấu trúc trần thuật nghệ thuật trong tác phẩm tự sự. Tuy nhiên, hai yếu tố thenchốt liên quan đến phương thức trần thuật là người kể chuyện và điểm nhìntrần kể chuyện hiểu theo nghĩa đen chính là người kể câu chuyện chongười đọc nghe. Đây là nhân vật trung tâm của tự sự vì trên danh nghĩa toànbộ văn bản tự sự là sản phẩm của họ tạo ra. Bản thân người kể chuyện với cácyếu tố về chỗ đứng, điểm nhìn, cách thức kể lại câu chuyện sẽ tác động mạnhđến cấu trúc truyện kể cũng như mạch truyện trong tác phẩm. Người kểchuyện có vị trí, vai trò đặc biệt trong nghệ thuật tự sự. Nó chính là mộtphương diện quan trọng thể hiện chủ thể, bởi thái độ của người kể chuyện vớithế giới câu chuyện được kể thống nhất, hoặc ít nhất cũng thống nhất ở mộtphần, một phương diện nào đó với quan điểm, với lập trường tư tưởng của tácgiả. Vì vậy, mỗi loại hình diễn ngôn tự sự đều phải xây dựng một người kểchuyện đặc thù để kể câu chuyện mà chủ thể muốn gửi tới đối tượng tiếpnhận. từng nói “tự sự là cái có thể chuyển ngữ được mà không phảichịu một tổn hại cơ bản nào”, và vai trò chuyển ngữ ấy đặt lên người kểchuyện, điểm khác biệt cơ bản của tác phẩm tự sự với một bài thơ trữ tình haymột diễn ngôn triết hệ thống trần thuật của một diễn ngôn tự sự, mối liên hệ giữa cácyếu tố người kể chuyện - nhân vật - người nghe được thiết lập trong mộtchỉnh thể của chiến lược giao tiếp thể loại. Mối quan hệ hoàn chỉnh của bayếu tố đã đặt ra một vấn đề khác gắn bó chặt chẽ với người kể chuyện - vấnđề điểm nhìn. Mỗi nhân vật người kể chuyện bao giờ cũng gắn với một vị trí,một chỗ đứng nhất định trong không, thời gian, trong mô hình cấu trúc truyệnkể của thể loại, tạo nên những điểm nhìn khác nhau. Như vậy, điểm nhìn nghệthuật gắn liền với người kể chuyện. Nó thể hiện rõ vị trí của người kể với câu13chuyện được kể, từ đó xác định quyền năng của người kể chuyện trong tácphẩm. Do đó, điểm nhìn nghệ thuật gắn với cái nhìn của chủ thể, mối quantâm của anh ta với các vấn đề được kể, tạo ra cái nhìn nghệ thuật cho tácphẩm. Mỗi điểm nhìn thể hiện một vai, vị thế phát ngôn nào đó của chủ nghệ thuật tự sự, vấn đề điểm nhìn thuộc về các kỹ thuật, nguyên tắc tựsự. Nó là một trong những vấn đề then chốt của kết cấu tác phẩm, “cung cấpmột phương diện để người đọc nhìn sâu vào cấu tạo nghệ thuật và nhận ra đặcđiểm phong cách ở trong đó” [94; Tuy nhiên, nhìn từ hệ hình cấu trúcvăn bản tự sự, nghệ thuật kể chuyện có ba điểm nhìn điểm nhìn nhân vật,điểm nhìn người kể chuyện và điểm nhìn của người đọc. Khi truyện kể trởnên phức tạp hơn thì điểm nhìn thứ tư nảy sinh từ sự khác biệt rõ rệt giữangười kể chuyện và tác tác phẩm tự sự, điểm nhìn có ý nghĩa quan trọng, là yếu tố cơbản nhất tạo nên phương thức trần thuật của văn bản, là phương tiện để tổchức, kết cấu văn bản nghệ thuật. Do đó, dựa vào việc sử dụng điểm nhìn màngười ta phân chia ra nhiều phương thức tự sự/ trần thuật khác nhau. Theo Từđiển thuật ngữ văn học thì “phương thức trần thuật được cấu thành bởi sựphối hợp giữa tiêu cự trần thuật và cách kể” [94; Tiêu cự trần thuật cóthể chia thành hai loại trần thuật biết hết - điểm nhìn toàn tri vầ trần thuậttheo điểm nhìn nhân vật - điểm nhìn hạn tri. Còn tư cách kể gắn với người kểchuyện nên có thể chia thành người kể lộ diện kể theo ngôi thứ nhất hoặcngười kể ẩn tàng kể theo ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ hai.Có rất nhiều quan niệm chia phương thức trần thuật thành nhiều loạihình khác nhau. Song trên những điểm dị biệt vẫn có nét đại đồng là chủ yếudựa vào cách kể ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, gắn với cái nhìn toàn tri vàhạn tri, người kể lộ diện và ẩn tàng. Theo đó, nhìn chung, chúng ta có thể chiathành một số phương thức sau1. Kể theo ngôi thứ ba, khách quan, người kể biết hết, tiêu cự Kể theo ngôi thứ ba, người kể biết hết, có bình Kể theo ngôi thứ ba, chủ quan do vận dụng điểm nhìn của nhân vậttiêu cự bên trong.4. Kể theo ngôi thứ nhất của người kể bàng quan, đứng Kể theo ngôi thứ nhất có bình Kể theo ngôi thứ nhất mang điểm nhìn của người trong cuộc [94; thân sự phân chia thành các phương thức trần thuật trên đây đã thểhiện quá trình vận động, phát triển của thể loại tự sự trong lịch sử văn sát nghệ thuật tự sự trong tiến trình văn học chúng tôi nhận thấy phươngthức trần thuật theo ngôi thứ ba xuất hiện khá sớm, từ trong văn học dân gianvà trung đại, còn phương thức trần thuật theo ngôi thứ nhất, từ điểm nhìn bêntrong xuất hiện muộn hơn, bắt đầu từ các tác phẩm văn học hiện đại. Ngaytrong cùng một phương thức trần thuật theo ngôi thứ ba thì các tác phẩm tự sựdân gian, trung đại chủ yếu theo các phương thức 1 và 2, phương thức 3 đếnthời cận, hiện đại mới có. Bởi chỉ khi xuất hiện ý thức cá nhân mạnh mẽ, rõrệt, biểu hiện trực tiếp, cụ thể thì điểm nhìn bên trong mới được sử dụng trongnghệ thuật tự sự, để kể truyện đời và truyện của mình bằng góc nhìn, kinhnghiệm, tư tưởng của cá nhân. Khái niệm “tiêu cự” trong phương thức trầnthuật giúp khu biệt được đặc trưng của từng thời kỳ, giai đoạn văn học khácnhau có cùng một hình thức trần thuật ví dụ như việc trần thuật theo ngôi thứba trong văn học trung đại và hiện Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, đời tưTìm hiểu phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư, chúngtôi vẫn sử dụng khái niệm phương thức trần thuật và các hình thức phươngthức trần thuật của tự sự nói chung. Tuy nhiên, khảo sát một thể loại tự sự cỡnhỏ là truyện ngắn, gắn với thể tài thế sự - đời tư trong bối cảnh văn học ViệtNam những năm đổi mới từ sau 1986, chúng tôi xem xét những phương16thức trần thuật đặc trưng được sử dụng, lý giải cặn kẽ hơn về các phương thứctrần thuật đó. Từ đó, chúng tôi sẽ bước đầu nhận diện đặc trưng thể loại gắnvới thể tài sẽ chi phối đến hệ thống thi pháp, ngôn ngữ nghệ thuật, mà với tựsự thì quan trọng bậc nhất vẫn là trần thuật, sự kể, cách kể, chiến lược cạnh đó, chúng tôi cũng mở rộng khảo sát, tìm hiểu mọi yếu tố chiphối đến các phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư như tìnhhuống/ sự kiện, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu… để có cái nhìn toàn tri, đachiều, thấu đáo, đặt phương thức trần thuật trong chỉnh thể tổ chức nghệ thuậtcủa tác phẩm tự sự. Do đó, khái niệm phương thức trần thuật của truyện ngắnthế sự - đời tư được hiểu linh động, mang tính chất công cụ như một cách tiếpcận thể loại văn học này trong giai đoạn văn học đổi mới. Từ đó, chúng tôi đikhu biệt, chỉ ra những đặc điểm riêng, mang tính đặc thù trong nghệ thuật trầnthuật của truyện ngắn thế sự - đời tư với các kiểu thể tài khác như lịch sử, khubiệt trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư trong giai đoạn văn học đổi mớisau 1986 với truyện ngắn nói riêng và các thể loại tự sự nói trong trong giaiđoạn văn học sử thi thế, chúng tôi không định nghĩa duy danh hay đưa ra khái niệm thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư là yếu tố hạt nhân, đặctrưng nổi bật để chúng tôi tìm hiểu, khảo sát, diễn giải và tái hiện một phầndiện mạo của thể loại trong sự vận động của một giai đoạn văn học có nhiềubiến đổi mang tính bước ngoặt. Và việc đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu cácphương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư thời kỳ từ sau 1986 đếnnay cũng là một cách thay đổi tọa độ, điểm nhìn, phương pháp tiếp cận cáchiện tượng trong lịch sử văn học không đi theo lối mòn của lý thuyết phảnánh mà tìm hiểu bề sâu cấu trúc thể loại trong sự phát triển, thay đổi. Do đó,trần thuật là một cách thức đặc sắc, đặc thù và hữu dụng nhất để tái tạo hiệnthực trong các truyện ngắn, thể loại vẫn được coi là khái quát thế giới từ mộtlát cắt, khoảnh Tình hình nghiên cứu phương thức trần thuật trong văn xuôiViệt Nam từ sau 1986Vào những năm đầu của thế kỉ XX, phương thức trần thuật trong cáctác phẩm tự sự đã được giới nghiên cứu nước ta quan tâm và chú ý. Theo cáchhiểu truyền thống mà Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa, phươntình huống, kết cấu; ngôn ngữvà giọng điệu trần thức trần thuật là một vấn đề quan trọng của lý thuyết tự sự đãvà đang thu hút và nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong vàngoài nước. Ở đây, trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi xin được đềcập đến một vài công trình nghiên cứu của các lí thuyết gia nổi tiếng có ýnghĩa định hướng về mặt lí thuyết đối với công trình của chúng số nghiên cứu ngoài nướcTrước hết, ở nước ngoài, người có công đầu trong việc nghiên cứu nghệthuật tự sự phải kể đến là một nhà nghiên cứu người Anh. Trongtác phẩm Nghệ thuật văn xuôi, ông đã đưa ra bốn hình thức trần thuật cơ thức trần thuật thứ nhất có tên gọi “toát yếu toàn cảnh” có đặc điểm làsự xuất hiện của người trần thuật toàn tri, có quyền quyết định số phận cácnhân vật của mình. Hình thức trần thuật thứ hai có tên gọi là “người trầnthuật kịch hóa” có đặc điểm người trần thuật đứng ở ngôi thứ nhất xưng “tôi”kể lại câu chuyện mà mình được chứng kiến hoặc chính bản thân mình đã trảiqua. Hình thức trần thuật thứ ba có tên gọi “ý thức kịch hóa” cho phép miêutả đời sống nội tâm phức tạp, sự giao tranh những xúc cảm tâm lí của nhânvật. Cuối cùng là hình thức trần thuật thứ tư có tên “kịch thực thụ” gần vớitrình diễn sân khấu bởi vì ở đây trần thuật được đưa ra dưới dạng một cảnhdiễn trên sân khấu, người đọc chỉ có thể thấy được nhân dạng và các cuộc đốithoại của nhân vật mà không hiểu gì về đời sống nội tâm. Và trong quan niệmcủa mình, coi hình thức trần thuật này là hình thức hoàn hảo trong tác phẩm Điểm nhìn trong tiểu thuyết đã đưa ra mộtsự phân loại tương đối chi tiết về người kể chuyện. Thứ nhất là hình thứcngười kể chuyện “toàn năng biên tập”, người kể chuyện xuất hiện trong vai“nhà xuất bản - nhà biên tập”, họ biết tất cả và có khả năng xâm nhập vào câuchuyện dưới dạng những trao đổi về cuộc sống, phong tục và đạo đức. Thứhai là hình thức người kể chuyện “toàn năng trung tính”, không có sự canthiệp trực tiếp của người kể chuyện. Thứ ba là hình thức trần thuật “tôi lànhân chứng”, người kể chuyện kể từ ngôi thứ nhất, là một nhân vật trongtruyện nhưng không tham gia vào câu chuyện mà chỉ hiểu biết ít ỏi về cácnhân vật. Hình thức trần thuật thứ tư là hình thức “tôi là vai chính”, người kểchuyện là nhân vật chính trong câu chuyện. Thứ năm là hình thức trần thuật“toàn năng cục bộ đa bội”, người kể chuyện đứng bên ngoài câu chuyện, căncứ vào điểm nhìn của nhiều nhân vật để kể chuyện. Thứ sáu là hình thức trầnthuật “toàn năng cục bộ đơn bội”, người kể chuyện đứng bên ngoài và dựavào điểm nhìn của một nhân vật trong truyện để kể. Thứ bảy là hình thức trầnthuật theo “mô thức kịch” và cuối cùng là trần thuật theo kiểu “camera”. Ở20hai hình thức sau này hầu như người kể chuyện chỉ khách quan ghi lại các sựviệc, hiện tượng mà không tỏ bất cứ một thái độ chủ quan một nhà nghiên cứu Liên Xô trong cuốn Dẫn luận nghiêncứu văn học cũng bàn về vị trí người trần thuật trong nghệ thuật trần thuật đãphát biểu “Trần thuật tự sự bao giờ cũng được tiến hành từ phía một ngườinào đó. Trong sử thi, tiểu thuyết, cổ tích, truyện ngắn trực tiếp hay gián tiếpđều có người trần thuật” [136; Theo Pospelov thì “người trần thuật làloại người môi giới các hiện tượng được miêu tả và người nghe hoặc ngườiđọc là người chứng kiến và người cắt nghĩa các sự việc xảy ra”. Ở đây,Pospelov đã đặc biệt quan tâm đến vai trò của người kể chuyện trong nghệthuật trần thuật. Ông cũng cho rằng có hai kiểu người trần thuật phổ biến“Hình thức thứ nhất của miêu tả tự sự là trần thuật từ ngôi thứ ba không nhânvật hóa mà đằng sau là tác giả. Nhưng người trần thuật cũng hoàn toàn có thểxuất hiện trong tác phẩm dưới hình thức một cái “tôi” nào đó” [136; số nghiên cứu trong nướcBên cạnh các nhà nghiên cứu nước ngoài, các nhà nghiên cứu trongnước cũng dành sự quan tâm đến nghệ thuật trần thuật . Trong cuốn Tự sự họctập 1, Lại Nguyên Ân với bài viết “Về việc mở ra môn Trần thuật học trongngành nghiên cứu văn học ở Việt Nam” đã đồng nhất trần thuật học với tự sựhọc và cho rằng “Thực chất hoạt động trần thuật là kể, là thuật; cái đượcthuật, được kể, trong tác phẩm văn học tự sự là chuyện” [141; và“Trần thuật học hiện đại quan niệm tác phẩm nghệ thuật như một hiện tượnggiao tiếp nghệ thuật” [141; Đình Sử trong Từ điển thuật ngữ văn học đã đưa ra ý kiến khá hệthống và sâu sắc về vấn đề này. Nhà nghiên cứu cho rằng “Người trần thuậtlà một nhân vật hư cấu hoặc có thật, mà văn bản tự sự là do hành vi ngôn ngữcủa anh ta tạo thành” [94; Ông chỉ ra năm chức năng của người trầnthuật “1 chức năng kể chuyện, trần thuật; 2 chức năng truyền đạt, đóng vai21 Lượt xem 591 THE MOVEMENT OF THE TREND WITH THE NARRATIVEOVERVIEW IN VIETNAMESE PROSE AFTER 1975 Tác giả bài viết NGUYỄN THỊ TUYẾT MINHTrường Đại học Sư phạm Hà Nội TÓM TẮT Trần thuật là phương diện hình thức cơ bản của tác phẩm tự sự, có vai trò rất quan trọng trong việc chuyển tải ý đồ nghệ thuật cũng như thái độ thẩm mĩ của nhà văn. Bài viết này nhằm tổng kết, khái quát hóa bình diện điểm nhìn trần thuật – một bình diện nổi bật, thể hiện rõ sự đổi mới của thực tiễn văn xuôi nước ta sau 1975 và góp phần khắc họa trung thực bức tranh văn học sử mà người đọc, người học, người dạy Ngữ văn hiện nay đang quan tâm. Từ khóa Điểm nhìn trần thuật, văn xuôi sau 1975, Việt Nam. ABSTRACT Narration is an aspect of the basic form of narrative works of art, plays a important role in conveying the artistic purpose and aesthetic attitude of the writer. This article is used for the purpose of summarizing, generalizing the narrative point of view-a prominent level. Futhermore, this article also reflects the innovation of practical prose in Vietnam after 1975 and contributes to portraying honestly the painting of literature and history which the reader, the learner, the literature lecturer are now interested in. Keywords Narrative point of view, prose after 1975, Vietnam. xx x 1. Mở đầu Trần thuật là phương diện hình thức cơ bản của tác phẩm tự sự, có vai trò quan trọng trong việc chuyển tải ý đồ nghệ thuật cũng như thái độ thẩm mĩ của nhà văn. Nhân loại thế kỉ XXI đạt được thành tựu to lớn trong lĩnh vực tự sự/ trần thuật học – một lĩnh vực khoa học liên ngành với rất nhiều lí thuyết được khái quát từ thực tiễn phong phú của sáng tạo và tiếp nhận văn chương. Bài viết này không đi sâu vào các vấn đề lí thuyết trần thuật học mà vận dụng một số khái niệm công cụ đã được giới nghiên cứu xác lập để nhận diện, miêu tả và đánh giá về một chặng đường văn xuôi có nhiều đổi mới quan trọng ở nước ta – chặng đường từ sau 1975. Mục đích của chúng tôi nhằm tổng kết, khái quát hóa thực tiễn sáng tạo văn xuôi, góp phần vào việc khắc họa trung thực bức tranh văn học sử mà người đọc, người học, người dạy Ngữ văn hiện nay đang rất quan tâm. Trong khuôn khổ giới hạn, chúng tôi không thể bao quát mọi vấn đề của nghệ thuật trần thuật mà chỉ tập trung vào một khía cạnh nổi bật, thể hiện rõ sự đổi mới của văn xuôi nước ta 40 năm qua, đó là vấn đề điểm nhìn trần thuật. 2. Nội dung Điểm nhìn là vấn đề then chốt của kết cấu tác phẩm nghệ thuật. Nó hiện diện khắp nơi, chi phối hầu hết các yếu tố trên các cấp độ của văn bản; là “vị trí từ đó người kể nhìn ra và miêu tả sự vật trong tác phẩm. Không thể có nghệ thuật nếu không có điểm nhìn”. Trên thực tế, “giá trị của sáng tạo nghệ thuật một phần không nhỏ là do đem lại cho người thưởng thức một cái nhìn mới đối với cuộc sống. Sự thay đổi của nghệ thuật bắt đầu từ thay đổi điểm nhìn”1. Mặt khác, thông qua điểm nhìn trần thuật, người đọc có dịp đi sâu tìm hiểu cấu trúc tác phẩm và nhận ra đặc điểm phong cách của nhà văn. Khảo sát điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975, chúng tôi nhận thấy những xu hướng vận động như sau Xu hướng nhạt dần điểm nhìn đại diện cộng đồng, gia tăng điểm nhìn cá thể hoá Mỗi kiểu tư duy văn học là sản phẩm của một tâm thức văn hoá, một tâm thế sáng tạo cụ thể. Trong giai đoạn đất nước có chiến tranh, nhà văn được đặt ở vị trí trung tâm của đời sống và đại diện cho lợi ích cộng đồng. Người kể chuyện trong văn xuôi Việt Nam từ 1945 – 1975 thường đồng nhất cái nhìn của mình với chân lí. Đó là cái nhìn “toàn tri”, được bảo đảm bằng kinh nghiệm của cộng đồng. Sau 1975, đất nước phát triển trong hoà bình, nhu cầu đổi mới toàn diện đời sống xã hội được ý thức và văn học cũng không thể viết như cũ. Từ đầu thập kỉ 80, văn xuôi bắt đầu chuyển mạnh sang cảm hứng thế sự – đời tư với điểm nhìn cá thể hoá. Mặc dù vẫn còn những tác phẩm duy trì điểm nhìn đại diện cộng đồng như Ông cố vấn, Quãng đời xưa in bóng, Đường về Sài Gòn… nhưng chúng hầu như bị lấn át so với những tác phẩm tiếp cận hiện thực bằng cái nhìn cá thể hóa, tức là bằng kinh nghiệm cá nhân. Khảo sát trên các tác phẩm được dư luận chú ý, chúng tôi thấy sự chuyển dịch điểm nhìn khá rõ. Từ 1975 đến 1980, nhìn chung văn xuôi vẫn nghiêng về điểm nhìn đại diện cộng đồng. Có thể kể đến hàng loạt tác phẩm được bạn đọc yêu thích như Tháng Ba ở Tây Nguyên Nguyễn Khải, Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà, Những người đi từ trong rừng ra Nguyễn Minh Châu, Năm 1975 họ đã sống như thế Nguyễn Trí Huân, Đất trắng Nguyễn Trọng Oánh… Từ 1980 đến 1986, dư luận bắt đầu dành sự quan tâm hơn cho những tác phẩm mang cảm hứng đạo đức – thế sự hay đời tư với điểm nhìn của kinh nghiệm cá nhân như Đứng trước biển, Cù lao Tràm Nguyễn Mạnh Tuấn, Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn Ma Văn Kháng, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê Nguyễn Minh Châu, Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người Nguyễn Khải, Thời xa vắng Lê Lựu… Từ 1986 trở đi, người đọc hầu như chỉ còn bị cuốn hút bởi những tác phẩm mà ở đó, số phận cá nhân trở thành đối tượng khám phá chủ yếu. Trong những cuốn tiểu thuyết được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam hai năm 1988 – 1989, chỉ có Ông cố vấn của Hữu Mai là còn thấy rõ sự chi phối của điểm nhìn cộng đồng, nhưng nó được dư luận đánh giá cao trước hết ở khối lượng tư liệu lịch sử và nhân vật Vũ Ngọc Nhạ đã được thể hiện rất “đời thường”. Ba cuốn tiểu thuyết được giải của Hội Nhà văn mùa giải 1990 – 1991 cùng hàng loạt tác phẩm được chú ý khác, và những tiểu thuyết được giải các năm 2000, 2005, 2006, 2007, 2009, 2011, 2012 sau này, đều được viết bởi cảm hứng thế sự với điểm nhìn cá thể hoá. Đó là Nỗi buồn chiến tranh, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Cát bụi chân ai, Bến trần gian, Hồi ức binh nhì, Ánh trăng, Cuốn gia phả để lại, Bi kịch nhỏ, Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Hậu thiên đường, Cánh đồng bất tận, Và khi tro bụi, Một mình một ngựa, Đội gạo lên chùa, Trò chơi hủy diệt cảm xúc… Sự dịch chuyển từ điểm nhìn đại diện cộng đồng sang điểm nhìn cá nhân trong truyện ngắn còn rõ rệt hơn nữa. Từ những truyện ngắn gây bất ngờ đầu tiên như Hai người trở lại trung đoàn Thái Bá Lợi, Bức tranh, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa Nguyễn Minh Châu… đến các truyện ngắn được giải thưởng của Báo Văn nghệ, Tạp chí Văn nghệ quân đội, Tạp chí Thế giới mới… rồi đến truyện của Nguyễn Huy Thiệp Tướng về hưu, Muối của rừng, truyện của Y Ban Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, truyện của Lại Văn Long Kẻ sát nhân lương thiện, truyện của Nguyễn Bản Ánh trăng, truyện của Phạm Hoa Đùa của tạo hoá, truyện của Phan Thị Vàng Anh Hoa muộn, truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ Hậu thiên đường, Thành phố đi vắng… đều đề cập đến nội dung thế sự – đời tư với điểm nhìn cá thể hoá. Khảo sát trên một số tập truyện ngắn tiêu biểu giai đoạn sau 1975, đặc biệt là sau 1986, chúng tôi thu được kết quả như sau – Ánh trăng tập truyện ngắn được giải Báo Văn nghệ 1991 có 12 truyện, không một truyện nào được kể bởi điểm nhìn đại diện cộng đồng. – Bến trần gian tuyển những truyện ngắn được giải cuộc thi của Tạp chí Văn nghệ Quân đội hai năm 1992 – 1994 có 21 truyện, chỉ duy nhất một truyện Vịt trời lông tía bay về là kết hợp điểm nhìn đại diện cộng đồng với việc miêu tả phong tục, tập quán một vùng đầm phá miền Trung. Tập này có nhiều truyện viết về đề tài chiến tranh nhưng chủ yếu gắn với điểm nhìn cá thể hoá – những trải nghiệm của cá nhân nên ấn tượng về “nỗi buồn chiến tranh” rất rõ và rất khác với các truyện thời trước 1975. – Truyện ngắn hay 1993 tập truyện do Nxb Văn học và Báo Văn nghệ ấn hành có 15 truyện, không một truyện nào được kể bởi điểm nhìn đại diện cộng đồng. – 40 truyện rất ngắn tác phẩm chung khảo cuộc thi truyện mini của Tạp chí Thế giới mới- Nxb Hội Nhà văn 1994 không có truyện nào được kể bởi điểm nhìn đại diện cộng đồng. – Truyện ngắn hay Bắc – Trung – Nam tuyển chọn những tác phẩm được giải trong các cuộc thi 3 miền, Nxb Hội Nhà văn, 1995 có 28 truyện, cũng chỉ một truyện Vịt trời lông tía bay về là không hoàn toàn chịu chi phối của cảm hứng thế sự với điểm nhìn cá thể hoá. – Những truyện ngắn hay tập truyện do Nxb Công an Nhân dân ấn hành 1995 có 12 truyện, không một truyện nào được kể từ điểm nhìn đại diện cộng đồng. – Tác phẩm được giải Cây bút vàng 1996 -1998 tập truyện do Nxb Hội Nhà văn và Tạp chí Văn hoá văn nghệ Công an ấn hành gồm 19 tác phẩm, có một tác phẩm được kể bằng điểm nhìn đại diện cộng đồng là Cảm nhận hương hồi bút kí của Vương Trọng. – Truyện ngắn hay 2000 tập truyện do Nxb Hội Nhà văn ấn hành có 15 truyện, duy nhất truyện Trần Quang Diệu của Trần Thị Huyền Trang được kể bằng điểm nhìn đại diện cộng đồng. – Truyện ngắn hay 2004 tập truyện do Nxb Hội Nhà văn ấn hành có 28 truyện, không có truyện nào được kể bằng điểm nhìn đại diện cộng đồng. – Truyện ngắn hay 2005 tập truyện do Nxb Thanh Hoá ấn hành có 27 truyện, không truyện nào được kể bằng điểm nhìn đại diện cộng đồng. – Văn mới 2007-2008 tuyển chọn văn xuôi của những tác giả mới và tác giả đang được mến mộ, Nxb Hội Nhà văn và Công ty Văn hoá Đông A ấn hành có 27 tác phẩm, không tác phẩm nào được kể bằng điểm nhìn đại diện cộng đồng. – Truyện ngắn hay 2009 tập truyện do Nxb Văn học ấn hành có 27 truyện, không truyện nào được kể bằng điểm nhìn đại diện cộng đồng. – Văn mới 2012-2013 tuyển chọn văn xuôi của những tác giả mới và tác giả đang được mến mộ, Nxb Hội Nhà văn và Công ty Văn hoá Đông A ấn hành có 27 tác phẩm, không tác phẩm nào được kể bằng điểm nhìn đại diện cộng đồng. Như vậy, thực tế khảo sát cho thấy xu hướng sử dụng điểm nhìn đại diện cộng đồng chiếm số lượng rất ít mà chủ yếu là điểm nhìn cá thể hoá. Điều này chứng tỏ nhà văn đương đại ít có nhu cầu kể lại những câu chuyện “mọi người đã biết” mà chủ yếu kể câu chuyện “như tôi biết”. Trải nghiệm riêng, kinh nghiệm riêng trở thành nhu cầu diễn đạt chính yếu. Chẳng hạn, vẫn câu chuyện về sự tích Sơn Tinh Thuỷ Tinh nhưng người đọc lại đầy bất ngờ thích thú trước cách cắt nghĩa, lí giải từ điểm nhìn cá thể hoá của nhà văn Hòa Vang. Tác giả mở đầu bằng một kinh nghiệm của cá nhân “Như mọi người đều biết…Nhưng tôi biết còn có một sự thật lẽ cố nhiên khác nữa”2. Và niềm tin quen thuộc của độc giả bắt đầu bị thử thách, để rồi cuối cùng; dù họ chấp nhận hay không cái sự thật giả định mà người viết nêu ra, thì họ cũng buộc phải biết đến một niềm tin khác. Người kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thường đưa ra phản đề “Tôi sẽ kể chuyện này cho anh… Tôi không chắc…”3. Đọc Nỗi buồn chiến tranh, người ta nhận thấy, đó dường như là cuộc chiến tranh của riêng Bảo Ninh chứ không phải là cuộc chiến tranh đã từng diễn ra trong lịch sử. Truyện được kể bằng cái nhìn cá biệt của nhân vật Kiên – một cựu chiến binh bị chấn thương tâm lí nặng. Toàn bộ hiện thực ấy là hiện thực ảo. Những kí ức đứt quãng lần lượt hiện về. Nhà văn như muốn nói với bạn đọc đây không phải là câu chuyện khách quan đã xảy ra như mọi người đều biết mà là những gì ám ảnh nhất còn đọng lại trong kí ức riêng của một con người. Và chiến tranh được kể bằng kinh nghiệm cá biệt rất khác với truyền thống. Điều đó khiến người đọc thấm thía nỗi đau đắng tận cùng của thân phận con người trong chiến tranh, để rồi càng trân trọng hơn giá trị của độc lập tự do hôm nay. Rõ ràng, cá thể hoá điểm nhìn trần thuật khiến mỗi cá nhân là một thế giới riêng tư, độc đáo và quan niệm của mỗi cá nhân nhiều khi không hoàn toàn trùng hợp với quan niệm của cộng đồng. Khi điểm nhìn được cá thể hoá cao độ, cũng đồng nghĩa với việc nhà văn chú ý nhiều hơn đến cái ngẫu nhiên, cái không tất yếu. Nhà văn không kể những câu chuyện mọi người đã biết, không đưa ra những chân lí tuyệt đối mà muốn đối thoại nhiều hơn với bạn đọc để cùng suy ngẫm. Điều đó khiến điểm nhìn trần thuật vô cùng đa dạng, phong phú. Xu hướng đa dạng hoá điểm nhìn trần thuật Đây là xu hướng trần thuật khá phổ biến của văn xuôi Việt Nam sau 1975. Nếu trong văn xuôi giai đoạn trước 1975, điểm nhìn trần thuật của một tác phẩm thường rất dễ xác định, vì nó nhất quán, nó đồng nhất với điểm nhìn của tác giả. Từ điểm nhìn thấu suốt ấy, tác giả sẽ cất lên tiếng nói “hướng đạo” cho người đọc. Nghĩa là chân lí cuộc đời luôn được chỉ ra một cách rõ ràng, mạch lạc. Người đọc tiếp nhận những những giá trị đã được thẩm định. Nhưng cách nói hộ, nghĩ hộ của nhà văn một thời giờ đây dường như không còn thích hợp nữa. Trình độ của bạn đọc ngày càng không ngừng được nâng cao. Cái tôi cá nhân của người đọc đòi hỏi được xác lập như một nhân vị. Hơn nữa, cuộc sống đương đại hiện ra phức tạp muôn hình, muôn vẻ và người đọc có nhu cầu đánh giá, xem xét mọi điều bằng những trải nghiệm của riêng mình. Mặt khác, văn xuôi hôm nay không chỉ phản ánh hiện thực mà còn suy ngẫm về hiện thực. Hiện thực được mở ra với biên độ vô cùng rộng lớn có hiện thực quen thuộc khả kiểm, khả tín, nhưng cũng có vùng hiện thực xa lạ, mơ hồ, bí ẩn, bất khả tín… Đối với một số tác phẩm thì hiện thực không còn là mục đích tối thượng mà chỉ là phương tiện để thể hiện tư tưởng của nhà văn. Đối với nhiều nhà văn thì không chỉ “kể nội dung” mà còn là “viết nội dung”; điều quan trọng không phải là kể chuyện gì mà chính là cách thức kể câu chuyện ấy như thế nào. Cùng viết về một đề tài, cùng kể về một câu chuyện nhưng nhà văn này kể thì hấp dẫn, lôi cuốn độc giả; còn nhà văn kia thì không. Điều này trước hết do sự đa dạng hoá điểm nhìn trần thuật mang lại. Việc đa dạng hoá điểm nhìn trần thuật khiến cho “khối vuông rubic” của hiện thực, của lòng người được phơi lộ; thể hiện nhu cầu khám phá bản chất cuộc sống một cách sâu sắc, thận trọng; nhu cầu bình đẳng giữa nhà văn với độc giả… Đa dạng hoá điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi sau 1975 được biểu hiện ở việc gia tăng số lượng người kể chuyện, và nhà văn trao điểm nhìn trần thuật cho mọi nhân vật, không phân biệt nhân vật chính – phụ, nhân vật tin cậy – không tin cậy… Nổi bật là các dạng thức sau đây Luân phiên, lồng ghép điểm nhìn trần thuật Đây là hiện tượng tác phẩm không mặc định ở một điểm nhìn mà luôn đan xen, dịch chuyển từ điểm nhìn này sang điểm nhìn khác. Nhiều nhân vật trong tác phẩm luân phiên nhau đóng vai trò người kể chuyện, và từng nhân vật ấy bày tỏ cách nhìn riêng của mình về hiện thực. Cũng có khi, cùng lúc tồn tại nhiều điểm nhìn, các điểm nhìn chồng lên nhau, đan chéo, móc nối với nhau để mở ra cho người đọc những khám phá mới về đối tượng. Điều này tạo nên tính phức điệu, đa âm cho câu chuyện và tác phẩm văn xuôi trở thành một cấu trúc đa tầng, cùng lúc vang lên nhiều tiếng nói khác nhau. Chẳng hạn, trước số phận cơ cực, bất hạnh của người đàn bà trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu để cho nhiều điểm nhìn cùng soi rọi vào cái nhìn trẻ thơ, non nớt của đứa con trai kết án ông bố tàn bạo, và thề sẽ giết ông ta để bảo vệ mẹ. Nhưng con chị thì hiểu biết hơn, vừa khóc lóc vừa can ngăn em. Nhà nhiếp ảnh thì sẵn sàng “giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”. Viên thẩm phán thì khăng khăng ly hôn là giải pháp đúng đắn nhất. Nhưng người đàn bà, kẻ hứng chịu những trận đòn roi tàn nhẫn và phi lý của chồng lại nhìn nhận khác hẳn bà hiểu chồng, thương con, hiểu tình cảnh nan giải của gia đình mình; biết mình phải nhẫn nhục, cam chịu để bầy con đông đúc khỏi chết đói. Bi kịch của mẹ con bà không dễ dàng giải quyết được nếu chỉ trông cậy vào thiện chí cá nhân. Người đàn bà ấy có cái trí khôn của đời sống. Bà ta không ảo tưởng “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có hiểu được người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”4. Rõ ràng, nhân vật người đàn bà hiện diện trước ống kính “vạn hoa” của tác phẩm. Và bạn đọc không dễ dàng phán xét đơn giản đúng – sai từ một phía, mà phải thận trọng cân nhắc từ nhiều phía để cắt nghĩa sao cho thấu tình đạt lí. Người đàn bà ấy vừa đáng giận lại vừa đáng thương. Phía sau gương mặt xấu xí của bà ta là vẻ đẹp ẩn khuất trong tâm hồn, vẻ đẹp của mẫu tính dám hy sinh và chịu trách nhiệm trước đàn con của mình. Trong tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ 5, điểm nhìn trần thuật liên tục di chuyển từ nhân vật này đến nhân vật khác. Có lúc tác phẩm được kể dưới điểm nhìn của nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ các chương 17, 19, 30, 32…; có khi được kể dưới điểm nhìn của thầy giáo Hiến các chương 1,7, 15; có lúc lại kể dưới điểm nhìn của An – người yêu Nguyễn Huệ các chương 75, 92, 97; có lúc điểm nhìn lại được giao cho nhân vật Lãng – em trai An các chương 87, 99… Rất nhiều biến cố được lí giải khác nhau từ điểm nhìn của mỗi nhân vật. Và sự kết hợp linh hoạt các điểm nhìn trần thuật khiến mỗi sự kiện của đời sống được cắt nghĩa thấu đáo, khách quan và đa diện hơn. Tác phẩm văn học khi ấy mang dáng dấp “một bản giao hưởng” nhiều bè, nhiều điệu; đạt tới hiệu quả thẩm mĩ phong phú, bất ngờ. Không chỉ luân phiên, nhiều tác phẩm văn xuôi Việt Nam sau 1975, đặc biệt là sau 1986 còn lồng ghép điểm nhìn trần thuật để làm mới kĩ thuật tự sự. Trong tác phẩm có sự tương tác giữa điểm nhìn của người kể chuyện với một hoặc nhiều nhân vật, tạo ra sự hoà phối, đan xen, phức hợp của nhiều kinh nghiệm, nhiều luồng tư tưởng, có khi cùng chiều, có khi đối nghịch. Tiểu thuyết Hồ Quý Ly6 của Nguyễn Xuân Khánh là một ví dụ. Ở đây, người trần thuật xưng “tôi” mà nhân vật cũng xưng “tôi” giành quyền tự kể Chương II Hồ Nguyên Trừng; chương V Trần Khát Chân; chương VI Cô gái vườn mai; chương XII Đường lên Yên Tử; chương XIII Hội thề Đốn Sơn. Ta đều biết, những nhân vật lịch sử như Hồ Nguyên Trừng, Trần Khát Chân… là những con người của quá khứ, cách xa ngày nay đã sáu thế kỉ. Họ đã “an nghỉ dưới mồ” từ lâu, vậy mà trong tác phẩm, nhà văn cho họ “sống lại” để kể chuyện mình và chuyện của thời đại mình. Câu chuyện lịch sử được “hiện tại hoá” như đang vận động, đang diễn ra, đang song hành cùng con người hôm nay. Nguyễn Xuân Khánh đã tạo ra sự hoà phối của hai loại điểm nhìn điểm nhìn trần thuật khách quan và điểm nhìn chủ quan của từng nhân vật lịch sử. Tác phẩm, do đó, có cấu trúc mở, giàu tính đối thoại; nói về quá khứ nhưng chất chứa những suy ngẫm sâu sắc về hiện tại. Và những sự kiện của lịch sử luôn hiện diện trong tư thế đang vận động ở thì “hiện tại chưa hoàn thành”. Trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, vai trò bình đẳng trong điểm nhìn của mỗi nhân vật khiến cho tác phẩm luôn là một cấu trúc đa tầng, đa nghĩa. Đọc văn Nguyễn Huy Thiệp đầy bất ngờ, “tiền văn” không đoán được “hậu văn”. Chi tiết nào cũng đa nghĩa, đầy sức gợi và có khả năng kích thích đối thoại rất mạnh. Tiểu thuyết Chinatown 7 cũng sử dụng kĩ thuật lồng ghép điểm nhìn cực kì phức tạp “tôi” và “hắn” là hai mà thực ra là một; “tôi” và “chị ta” cũng vừa đồng nhập vừa phân li như thế. Rõ ràng, luân phiên, lồng ghép điểm nhìn khiến chủ đề tác phẩm và tư tưởng tác giả không lộ diện, khó nắm bắt; đòi hỏi người thưởng thức nhiều suy nghĩ, nhưng cũng gợi nhiều liên tưởng khác nhau. Điều này khiến tác phẩm thực sự “là một quá trình”, khơi gợi ở bạn đọc sự “đồng sáng tạo”; đến với mỗi bạn đọc, tác phẩm không ngừng “sinh sôi” về nghĩa. Và tất yếu, xung quanh một tác phẩm dễ gây ra tranh luận trái chiều. Giao điểm nhìn trần thuật cho những nhân vật “không đáng tin cậy” Đây là hiện tượng trong tác phẩm, nhà văn giao nhiệm vụ kể chuyện cho những nhân vật dị biệt, đặc biệt – kiểu nhân vật “không đáng tin cậy”. Đó có thể là một thương binh bị chấn thương thần kinh như Kiên Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh; có thể là một hồn ma đã uống nước ở Bến Lú, Sông Mê nên nhớ nhớ, quên quên như các nhân vật Hương và Hoa Người sông Mê – Châu Diên; có thể là nhân vật bào thai đang nằm trong bụng mẹ Thiên thần sám hối – Tạ Duy Anh; có khi là một thanh niên bị điện giật chết hụt rồi bỗng có khả năng đi ngược về quá khứ Trong sương hồng hiện ra – Hồ Anh Thái… Nỗi buồn chiến tranh8 sử dụng người trần thuật không phải là cái tôi bình thường mà là cái tôi tâm hồn đã bị chấn thương tâm lí. Anh ta cũng không phải kể về chiến tranh như đang diễn ra mà là câu chuyện được nhớ lại; nhớ lại những gì ấn tượng nhất. Trong tư cách một “nhà văn phường”, Kiên luôn nhắc đi nhắc lại lời thú nhận rằng mình viết trong trạng thái “rối bời”, “bấn loạn”. Câu chuyện về chiến tranh được hiện lên trong dòng kí ức “chập chờn bất định” của Kiên… Điểm nhìn chủ quan hóa triệt để như thế, đòi hỏi ở người đọc sự ngờ vực, sự phản biện. Giao điểm nhìn trần thuật cho một nhân vật bị chấn thương như vậy, nhà văn Bảo Ninh muốn độc giả cùng trải nghiệm với một người lính “vô danh” nỗi đau đắng tận cùng của thân phận con người trong chiến tranh, để rồi tri nhận đầy đủ hơn giá trị của cuộc sống hòa bình. Mở đầu tiểu thuyết Người sông Mê, tác giả Châu Diên công khai rằng ông không định “kể lại một câu chuyện” giống với hiện thực, không nhằm giảng giải, cắt nghĩa câu chuyện bằng lôgic đời sống mà đang trình bày một “trò chơi” của văn chương “Trời và Đất đã cho sinh ra một ngày Đầu tiên, trong ngày đó có câu chuyện liên quan đến cô gái tên là Hoa… Có điều khó hiểu và cũng gây khó dễ cho người kể chuyện, ấy là khi thì cô này nghĩ mình là Hoa, có khi chính cô lại cho rằng mình là Hương”; “Cô nhớ và không nhớ. Thực tình cô cũng có nhớ, nhưng rồi nhớ nhớ quên quên, thành thử là quên và nhớ lẫn lộn. Cô làm cho nhiều người ra trình diện trong cuốn sách này cũng có tật giống cô, ấy là cứ nhớ nhớ quên quên. Và có khi cô còn làm cho cả những ai tiếp xúc với các nhân vật trong sách này cũng lây cái tật quên quên nhớ nhớ ấy…”9. Nhân vật kể chuyện ở đây thật “không đáng tin cậy”. Cô ta chỉ là một hồn ma. Ngay từ đầu tác phẩm, tính chất hư cấu, bịa đặt cố ý lộ liễu nhằm gây ra sự ngờ vực với người đọc. Thậm chí tính “trò chơi” được tiết lộ ngay từ tên truyện Người sông Mê. Tác phẩm không chia chương mà chia khúc, vừa theo trình tự kiếp luân hồi như quan niệm nhà Phật, vừa ngẫu hứng, vu vơ Kiếp ảo, Kiếp gốc, Kiếp thực… Hiện thực giả định này buộc người đọc phải có cách ứng xử khác văn chương có nhất thiết chỉ có mục đích phản ánh hiện thực không? Văn chương còn có thể phản ánh những suy tư, mơ mộng về những vùng hiện thực bất khả tri – hiện thực của tâm linh, ảo giác. Nhân vật trần thuật ở đây không được điển hình hoá mà rất dị biệt, cá biệt, nhưng lại tạo ra một hiệu ứng thẩm mĩ bất ngờ với người đọc. Đọc xong câu chuyện, người ta bỗng thấy “thương người và lại thương thân”. Tiểu thuyết Thiên thần sám hối xác nhận “trò chơi” bằng chính lời Tựa “Câu chuyện khó tin này là của một đứa trẻ còn ở trong bụng mẹ. Nếu đọc xong mà quý vị vẫn không tin thì cũng không sao” 10. Và người trần thuật xưng “tôi” chính là cái bào thai ấy. Chỉ còn 72 giờ nữa là thai nhi phải chào đời. Nó đang trăn trở có nên ra đời hay không? Ban đầu thai nhi “khao khát chờ đến cái ngày vĩ đại ấy”, nhưng rồi nó quyết định cứ ở trong bụng mẹ. Bởi nó đã nghe được câu chuyện một bà mẹ sinh con rồi bỏ con tại bệnh viện; chuyện một cô gái liên tục bịsảy thai vì quả báo do người chồng độc ác đã từng giết người; chuyện một gã thanh niên coi đứa con là tội nợ… Từ đó, tác phẩm gợi ám ảnh nơi độc giả về một hiện thực trớ trêu rất đáng bận tâm của đời sống đương đại những nhầm lẫn đáng buồn của con người, những dục vọng tăm tối đang hủy hoại cái đẹp và ăn mòn các giá trịsống… 3. Kết luận Có thể thấy, xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 là không ngừng gia tăng điểm nhìn cá thể, và đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật. Trước áp lực cạnh tranh từ các phương tiện giải trí – truyền thông, lối sống và nhịp độ sống của thời đại kỹ trị… buộc người viết văn phải nỗ lực kiếm tìm hình thức mới cho văn xuôi Việt Nam đương đại. Dường như nhà văn hôm nay đang cố gắng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Có thể viết văn như thế nào? Khi tái hiện hiện thực đời sống, nhiều nhà văn có xu hướng vượt khỏi mô hình trần thuật quen thuộc, xác lập mối quan hệ mới giữa văn chương với hiện thực, giữa nhà văn với bạn đọc để tạo ra những kinh nghiệm đọc mới. Đa dạng hóa điểm nhìn, phá vỡ cái nhìn toàn tri; văn xuôi đương đại tìm đến những điểm nhìn mang rõ dấu ấn cá nhân, cá thể. Văn học của điểm nhìn nhìn trần thuật như vậy đúng là không dễ đọc với mọi độc giả, đặc biệt là những độc giả yêu thích sự mực thước, hiền lành. _________1 Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên 2010, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2 Hòa Vang 1996, Sự tích những ngày đẹp trời, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 3 Nguyễn Huy Thiệp 2001, Mưa Nhã Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, 4 Nguyễn Minh Châu 1999, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội, 5 Nguyễn Mộng Giác 2003, Sông Côn mùa lũ 2 tập, Nxb Văn học & Trung tâm nghiên cứu Quốc học. 6 Nguyễn Xuân Khánh 2000, Hồ Quý Ly, Nxb Phụ nữ. 7 Thuận 2005, Chinatown, Nxb Đà Nẵng. 8 Bảo Ninh 2005, Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Hội Nhà văn. 9 Châu Diên 2005, Người sông Mê, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 10 Tạ Duy Anh 2004, Thiên thần sám hối, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Bình 2012, Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 2. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi 1999, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 3. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn 2006, Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 4. Trần Đình Sử Chủ biên 2004, Tự sự học – một số vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. 5. Trần Đình Sử Chủ biên 2008, Tự sự học – một số vấn đề lý luận và lịch sử, Phần 2, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. 6. Các tuyển tập truyện ngắn, tiểu thuyết, kí Việt Nam sau 1975. Nguồn Tạp chí Khoa học Trường Đại học Thủ đô Hà Nội,số 3/2016, trang 19-29 Thánh Địa Việt Nam Học

phương thức trần thuật