TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 31. 2016 PHƯƠNG PHÁP VÀ PHONG CÁCH PHÊ BÌNH VĂN HỌC CỦA VŨ NGỌC PHAN (NHÌN TỪ TÁC PHẨM NHÀ VĂN HIỆN ĐẠI) Vũ Thanh Hà1 TÓM TẮT Bài viết nghiên cứu phương pháp và phong cách phê bình văn học của Vũ Ngọc Phan, một trong những nhà lý luận, phê bình hàng đầu Tải
Trong tư duy phê bình, tiếp nhận văn học thời hiện đại, ngoài việc vận dụng các phương pháp tư duy của khoa học xã hội nhân văn như: phương pháp xã hội - lịch sử, phương pháp tâm lý học, phân tâm học, phương pháp ngôn ngữ học…, người ta còn vận dụng phương pháp tư
Phát biểu kết luận tại buổi làm việc với tập thể lãnh đạo VKSND tỉnh Bình Phước và các đơn vị trực thuộc, thay mặt đoàn kiểm tra, đồng chí Phó Viện trưởng Viện cấp cao 3 Nguyễn Văn Tùng nhấn mạnh, sau 6 tháng đầu năm 2022 Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Bình Phước
Nửa đầu thế kỷ XX, đã xuất hiện nhiều công trình lý luận phê bình ứng dụng các học thuyết văn nghệ phương Tây vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam. Trong đó, công trình mang màu sắc thi pháp học rõ rệt nhất là Chương Dân thi thoại (1936) của Phan Khôi. Nhìn chung
sáng tác, dịch thuật và phê bình văn học được thành lập vào năm 1957. Hiện nay, hội Nhà văn Việt Nam là một thành viên của Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Đại hội thường niên của Hội Nhà văn Việt Nam được tổ chức 5
Phương pháp và phong cách phê bình văn học của Vũ Ngọc Phan (Nhìn từ tác phẩm nhà văn hiện đại) Bài viết nghiên cứu phương pháp và phong cách phê bình văn học của Vũ Ngọc Phan, một trong những nhà lý luận, phê bình hàng đầu của văn học Việt Nam hiện đại. TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 31. 2016 PHƯƠNG PHÁP VÀ PHONG CÁCH PHÊ BÌNH VĂN HỌC CỦA VŨ NGỌC PHAN (NHÌN TỪ
OcuG4. 19 quyển sách phê bình văn học hay đưa ra những phương pháp luận về thi ca cùng thi sĩ, những phân tích thấu đáo về nhà văn và tác phẩm, những nhận định rất đúng đắn về văn chương và xã hội.“Những bài viết tập hợp trong cuốn sách này, trực tiếp hay gián tiếp, đều có liên quan đến vấn đề văn hóa đọc và đã được công bố trên các báo Nhân Dân, Sài Gòn Giải Phóng, Sài Gòn Giải Phóng Thứ Bảy, Tuổi Trẻ, Tuổi Trẻ Cuối Tuần, Thanh Niên, Người Lao Động, Phụ Nữ, Pháp Luật, Nhà Văn, Quán Văn, Văn Nghệ, Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Lý luận – phê bình văn học nghệ thuật, Sài Gòn Tiếp Thị, Doanh Nhân Sài Gòn Cuối Tuần…Khi đưa vào sách, chúng tôi có lược bỏ một số đoạn trùng lặp và một vài số liệu đã mất thời gian tính. Cuốn sách gồm hai phần. Phần đầu dành cho những bài viết bàn về việc đọc sách cùng một số hiện tượng của xuất bản và tiếp nhận văn học. Phần sau là những bài viết về một số tác giả, tác phẩm văn học hiện đại mà người viết có cơ may tiếp xúc. Nhằm phục vụ kịp thời cho báo chí, những bài viết trong tập này thường có tính chất giới thiệu, điểm sách nên không tránh khỏi hạn chế, mong bạn đọc lượng thứ. Chúng tôi chỉ hy vọng cuốn sách ghi nhận và làm chứng cho một vài phương diện của đời sống văn hóa, văn học những năm gần đây. Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, cho phép tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban biên tập các báo nói trên.”Huỳnh Như PhươngPhê Bình Văn Học Việt Nam Hiện ĐạiPhê bình Văn học Việt Nam hiện đại của Trịnh Bá Đĩnh trình bày những vấn đề cốt yếu đời sống lý luận phê bình văn học Việt Nam hiện đại và đương đại Phương pháp phê bình và lịch sử phê bình, việc kế thừa di sản lý luận phê bình truyền thống và tiếp thu các trào lưu lý luận nước ngoài, các hiện tượng còn gây tranh cãi, quan điểm mới về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, văn học và ngôn ngữ, nhà văn và độc giả. Cuốn sách cần thiết đối với những nhà hoạt động văn hóa văn nghệ và bạn đọc yêu mến, quan tâm đến văn Bình Kí Hiệu Học – Đọc Văn Như Là Hành Trình Tái Thiết Ngôn NgữTrên thế giới, kí hiệu học đã được nghiên cứu như là khoa học về kí hiệu từ đầu thế kỷ XX, và sau đó nó phát triển rầm rộ, lan rộng và được vận dụng ở khắp các nước từ Nga qua Mĩ, từ Tây Âu đến Đông Âu. Ở Việt Nam, kí hiệu học được khởi xướng bởi nhà nghiên cứu Phan Ngọc, Hoàng Trinh, tuy nhiên, mãi những năm gần đây, kí hiệu học mới được dịch và ứng dụng như một lí thuyết bởi các nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, Lã Nguyên… Với mục đích đưa phê bình kí hiệu học đến gần và “dễ hiểu” hơn với độc giả, như một cách tiếp cận mới để tìm ra cái hay, cái đẹp của văn học nghệ thuật, đem đến đời sống tinh thần phong phú cho độc giả, NXB Phụ nữ xin giới thiệu với bạn đọc cuốn Phê bình kí hiệu học – Đọc văn như là hành trình tái thiết ngôn ngữ của nhà phê bình Lã bình kí hiệu học của Lã Nguyên là cuốn sách phát hiện lại lí thuyết trên một chất liệu mới là các tác phẩm văn học Việt Nam, tác giả hướng đến việc tái cấu trúc các hệ thống ngôn ngữ đặc thù làm nên các loại hình diễn ngôn trong văn học nghệ thuật của một giai đoạn lịch sử và trong sáng tác của một số nhà văn, nghệ Khu Vực Văn Học Ngoại BiênCuốn sách này nghiên cứu các vấn đề văn học nổi lên trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI. Văn học ngoại biên, là những khu vực “không an toàn”, hiểu theo nhiều nghĩa. Tuy nhiên đây cũng là khu vực năng động nhất của văn hóa, là không gian cởi mở nhất cho sự nảy sinh những khả thể khác, cho sự giải cấu trúc những chuẩn mực, quy phạm. Không gian ngoại biên ấy hiện diện ở mọi thời đại văn hóa và ở thời đại nào, nó cũng dung nạp những sự lệch chuẩn, thách thức, khiêu khích nhưng cũng chính vì thế, nó luôn tiềm tàng sức sống, là không gian của văn hóa trẻ, là môi trường của nhiều cách tân, đột Luận & Phê Bình Văn HọcTiểu luận và phê bình văn học là cuốn sách vừa mới ra mắt bạn đọc tháng 9 năm 2011, tập hợp những bài viết trong mấy năm gần đây của GS Mai Quốc Liên. Chủ đề là văn hóa dân tộc, văn học hiện thời, và những suy ngẫm về các hiện tượng văn hóa – văn học những trăn trở, những lo nghĩ về tình hình văn hóa – văn nghệ hiện thời “Nhân sinh thức tự đa ưu hoạn” Người biết chữ thì nhiều lo nghĩ – Nguyễn Trãi. Nhân vật, đối tượng được đề cập trong cuốn sách là những con người một đời miệt mài với sự nghiệp văn hóa – văn nghệ, cho lý tưởng yêu nước, yêu dân…Cuốn sách gồm hai phần, phần I, Phê bình – trao đổi gồm các bài viết chân dung văn học và những cuộc chuyện trò thân mật với các học giả nước ngoài về văn học, về đất nước, con người Việt Nam…. Phần II Tiểu luận là phần thể hiện rõ nhất những trăn trở, suy tư, ngẫm nghĩ của GS về văn hóa – văn nghệ nước nhà trong giai đoạn hiện Phương Pháp Của Ngôn Ngữ Học Cấu TrúcCuốn sách này trình bày những phương pháp được sử dụng trong ngôn ngữ học miêu tả, hay nói cho đúng hơn, là ngôn ngữ học cấu trúc. Như vậy, nó nhằm thảo luận về những thủ pháp mà nhà ngôn ngữ học có thể thực hiện trong quá trình nghiên cứu nhiều hơn là đề ra một lý luận về những cách phân tích cấu trúc tính có thể rút ra từ những cuộc nghiên cứu phương pháp nghiên cứu được sắp xếp dưới dạng thức những thao tác phân tích procedures of analysis kế tiếp theo nhau mà nhà ngôn ngữ học dùng để xử lí các cứ liệu của mình. Chúng tôi hi vọng rằng lối trình bày các phương pháp dưới dạng thức và theo trình tự từng thao tác có thể góp phần giảm bớt cái ấn tượng ảo thuật và phiền phức thường đi đôi với những cách phân tích ngôn ngữ học tế nhị Nam Thi Ca Luận Và Văn Chương Xã HộiVới Lương Đức Thiệp, Văn học là sản phẩm và vũ khí của đấu tranh đẳng cấp. Văn chương dùng để gieo rắc những ý tưởng vào ý thức dân chúng. Xung đột đẳng cấp càng gắt gao, thì “vũ khí” phải càng sắc bén. Dù văn sĩ “lẻ loi” và “vô tư” đến đâu cũng phải chịu sức chi phối âm u của quyền lợi đẳng với Thi ca, cái áo thi sĩ phải mặc cho thi ca phải nhuộm bằng màu tươi thắm của cảm tình và giặt bằng linh hồn trong trắng của thi nhân. Và muốn ngăn Thi ca khỏi đi hoang sang bờ bến khác, thi sĩ phải lấy ý chí mà định một khu vực độc lập cho thi ca. Được thảnh thơi trong vườn Nghệ thuật, thi ca sẽ ra những đóa hoa vẹn Sắc Hương!…Việt Nam Thi ca luận và Văn chương xã hội không chỉ là xem thời thế luận thi ca, xem thi ca mà luận thi sĩ, xem xã hội mà luận văn chương, xem văn chương mà luận văn sĩ, mà Lương Đức Thiệp còn đưa ra những phương pháp luận về thi ca cùng thi sĩ, những phân tích thấu đáo về nhà văn và tác phẩm, những nhận định rất đúng đắn về văn chương và xã hội. Bằng những phương pháp suy luận lý tính, bằng những cảm nhận rất trực quan, bằng những lý luận rất sắc bén, cộng thêm sự sùng bái Việt ngữ, tôn thờ những giá trị dân gian, Lương Đức Thiệp đã vạch ra được cho người đọc đang rối mù trong rừng thi ca chủ nghĩa một con đường sáng, đưa ra được những kết luận về văn chương và thời cuộc, cùng những bình luận rất khách quan về đặc tính cá nhân của từng nhà văn và đẳng cấp của họ, mong xây dựng một lâu đài văn học nguy nga, góp phần dựng lên nền quốc học nước nhà vững Nhân Việt NamHơn nửa thế kỷ trước đây, phong trào Thơ mới đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nền văn học trước Cách mạng tháng Tám của đất nước. Các thi sĩ của thuở ấy đã đem lại cho bạn đọc một tiếng nói mới, phản ánh khá trung thực tâm trạng của cả một lớp thanh niên tiểu tư sản trong cuộc sống có nhiều đau buồn, trăn trở và đôi khí bế tắc trước hiện trạng của đất nước thời bấy giờ. Với sự đổi mới mạnh mẽ của hình thức nghệ thuật. Thơ mới thực sự đã thu hút được sự chú ý của khá đông đảo bạn đọc yêu thơ và đó cũng là một đóng góp có ý nghĩa vào sự phát triển của thể loại và chứng minh khả năng biểu đạt phong phú của tiếng lúc bấy giờ hai tác giả Hoài Thanh và Hoài Châu đã sớm nhận ra giá trị ấy đã kịp thời sưu tầm, giới thiệu các thành tựu của phong trào Thơ mới qua tác phẩm “Thi nhân Việt Nam” và đã cho xuất bản vào đầu năm 1942.“Thi nhân Việt Nam” là sự khám phá và đánh giá đầu tiên đối với Thơ mới. Chúng ta đều biết việc lựa chọn tác phẩm và tác giả đương thời, nhất là những người mới xuất hiện trên văn đàn, là một việc làm hết sức khó khăn, nhưng với sự cảm thụ khá sâu sắc và cái nhìn tinh tế, các tác giả đã chọn được một chùm hoa giàu hương sắc trong vườn thơ mới đã gửi tặng những người yêu thơ. Chính vì thế “Thi nhân Việt Nam” đã được bạn đọc cả nước đón nhận và tán thưởngTố Hữu – Tác Phẩm Và Lời Bình“Ai đó nói rằng những bài thơ hay luôn có cách để tìm được nơi lưu trú trong trái tim con người. Kinh thi vẫn được khôi phục lại bằng trí nhớ của nhân dân cho dù Tần Thủy Hoàng bao lần tìm cách thiêu chúng trong lửa. Truyện Kiều vẫn được nhân dân thuộc lòng và có thể đọc ngược từ câu cuối đến câu đầu. Ca dao dân ca vẫn nằm lòng từ ngàn đời trong trí nhớ của cả những người không biết chữ Trong chừng mực nào đó, nếu trong muôn một, văn bản thơ Tố Hữu bị biến mất, có thể những người cùng thời với ông sẽ tìm cách khôi phục lại từ trí nhớ của họ một cách không đến nỗi khó khăn lắm Cũng như thơ của bất cứ nhà thơ nào khác, thơ Tố Hữu cũng đang chịu sự sàng lọc nghiệt ngã của thời gian. Thời gian sẽ vượt qua những gì không phù hợp và biết cách giữ lại những gì đã làm xúc động sâu sắc trái tim mỗi con người.”Lê Thành NghịThơ Mới – Những Chuyện Chưa Bao Giờ CũThơ mới 1932-1945 – “Một thời đại trong thi ca” – cho đến nay vẫn còn ẩn chứa biết bao sự kiện, bao nhiêu khía cạnh, bao nhiêu mảng màu và chi tiết thú vị. Để đánh giá toàn cảnh bức tranh lịch sử phong trào Thơ mới đòi hỏi phải tìm trở lại những tài liệu nguyên gốc, những tiếng nói ban sơ, chân thực, trực cảm, trực giác, trực diện, trong đúng không khí, môi trường, cảnh quan, sinh quyển và thực sự là tiếng nói của “thời Thơ mới bàn về Thơ mới”.Cuốn sách Thơ Mới – Những Chuyện Chưa Bao Giờ Cũ – Người đương thời Thơ mới bàn về tác gia Thơ mới của Nguyễn Hữu Sơn tập hợp lại những đánh giá của “người đương thời Thơ mới” về 12 tác giả tiêu biểu đã xuất hiện và làm nên hồn cốt phong trào Thơ mới Đông Hồ, Nam Trân, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Bích Khê, Huy Thông, Nguyễn Bính, Huy Cận, Chế Lan Viên. Đây là công trình sưu tập, khảo luận, luận bình, giới thiệu đồ sộ và có giá trị tư liệu Lưới Bắt ChimGiăng lưới bắt chim là một tập hợp những bài tạp văn, tiểu luận, phê bình, giới thiệu và ghi chú của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã đăng rải rác trên các báo, tạp chí và mạng Internet từ năm 1988 đến năm 2006. Cuốn sách đã được Nhà xuất bản Hội nhà văn và Công ty Đông A in, tái bản 2 lần. Năm 2006, cuốn sách được Hội nhà văn Hà Nội trao giải thưởng về thể loại sách phê bình, tiểu Vị Học Và Tuyến Tính – Suy Nghĩ Về Các Định Đề Của Âm Vị Học Đương ĐạiCuốn sách này là một bản dịch từ nguyên văn cuốn “Phonologie et linéarité” viết xong năm 1980 và xuất bản năm 1985 ở Paris do Hội Nghiên cứu Ngôn ngữ học và Nhân loại học Pháp quốc SELAF…Nội dung chủ yếu của cuốn sách vốn là một luận đề phê phán những định kiến sai lầm đã vô hình trung lọt vào những nguyên lý làm cơ sở cho lý thuyết âm vị học cổ điển vốn chỉ phản ánh cách tri giác đặc thù của những người bản ngữ tiếng châu Âu, mong tìm ra những nguyên lý thực sự ngôn ngữ học và những thủ pháp hữu hiệu làm cho âm vị học có được tính phổ quát đích thực. Trong khi làm như vậy dĩ nhiên người viết phải soát kĩ toàn bộ vốn tri thức và phương pháp của âm vị học đương đại, kể cả những điểm sơ đẳng nhất, cho nên tôi hy vọng cuốn sách sẽ có ích cho cả những người không chuyên, dù đó là những người không tán thành quan điểm của tác giả ngay từ đầu…Lịch Sử Văn Học Anh QuốcMichael Alexander là giáo sư văn chương của Viện Đại Học S. Andrews. Ông vừa là nhà thơ vừa là dịch giả, đồng thời là người có kinh nghiệm giảng dạy lâu năm môn văn chương Anh quốc, cả cổ văn lẫn kim văn, tại các trường đại học châu Âu.“Lịch sử văn học Anh quốc của giáo sư Alexander là một tác phẩm đứng đắn được trình bày sáng sủa, dễ hiểu, và có sức thuyết phục. Đây là một công trình nghiên cứu văn học tỏ ra hết sừc đắc dụng đối với sinh viên, giáo viên và các độc giả phổ thông, cũng như đối với những người muốn truy tìm tư kiệu tham khảo. Tuy nhiên, trên tất cả những điều ấy, đây chính là một thành tựu của lý trí và óc phê bình, nhưng lại không hề mang tính cách cao siêu hay xa lạ.”Chris Wallace Crabbe, giáo sư Viện Đại Học Melbourne – AustraliaNguyễn Nhật Ánh – Hiệp Sĩ Của Tuổi Thơ“Tập sách là kết quả nghiên cứu bước đầu của một số tiếng nói trong giới phê bình nghiên cứu, giảng dạy văn học, của một số nhà văn có chung niềm đam mê sáng tác cho thiếu nhi – những người “đồng bệnh” với nhà văn Nguyễn Nhật chỉ là những tiếng nói đầu tiên về Nguyễn Nhật Ánh, nên chúng chỉ là những phác thảo mang tính nhận diện, đối thoại, gợi dẫn, đặt trong nhiều tiếng nói trân quý hiến của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đang còn tiếp tục. Công cuộc nghiên cứu, phê bình, giảng dạy và quảng bá về Nguyễn Nhật Ánh vẫn còn tiếp tục. Quyển sách này như một lời tri âm, tri ân đối với nhà văn. Cũng lại như tri âm với tất thảy độc giả thuộc nhiều thế hệ đã đọc và rồi sẽ đọc Nguyễn Nhật Ánh.”PGS. TS, Nhà nghiên cứu phê bình văn học Văn GiáCuộc Phiêu Lưu Của Những Cái TôiĐây là một quyển sách được viết dựa trên các bài phỏng vấn của nhà báo, nhà văn Phong Điệp với các nhà văn, nhà phê bình trẻ hiện nay. Qua các bài phỏng vấn này người đọc sẽ hiểu hơn về quan niệm sáng tác của những nhà văn mà mình mến mộ, hiểu hơn về sự vận động, chất lượng của Phê bình văn học trong giai đoạn hiện nay để điều còn lại chúng ta nhận ra viết văn chính là sự phiêu lưu của những cái tôi. Một sự phiêu lưu đầy thú vị. Qua quyển sách bạn sẽ có thêm những định hướng cho niềm đam mê của Bình Văn Học Thế Kỷ XXPhê Bình Văn Học Thế Kỷ XX của Thụy Khuê, cho đến thời điểm này, là công trình tiếng Việt đầu tiên và duy nhất thực hiện tham vọng lớn lao thuật lại con đường đi của những trào lưu phê bình văn học lớn trong thế kỷ phát từ nguồn gốc với người thầy cổ đại Aristote, tác giả đi qua phê bình lịch sử và thực chứng, qua phê bình phân tâm học củaFreud, tới cha đẻ của nền phê bình hiện đại – de Saussure, trường phái Hình thức và Cấu trúc của Nga với Bakhtin, xã hội học văn chương với LeoSpitzer, phương pháp so sánh của Auerbach, phê bình Ý thức với Raymond và Poulet, phê bình phân tâm hiện sinh của Sartre, phân tâm vật chất của Bachelard, trường phái bác ngữ học Đức, lý thuyết Ký hiệu học của Eco và Barthes, và dừng lại ở câu chuyện Hậu hiện đại thực chất là những lý giải cặn kẽ, những đúc kết giàu tính khoa học và có hệ thống chặt chẽ, được trình bày trong một lối viết sáng tỏ và hấp dẫn, cuốn sách cung cấp một cái nhìn toàn cảnh về phê bình văn học trên thế giới, cùng những liên hệ sát sao đến đời sống phê bình văn học Việt Nam. Một cuốn sách dường như không thể bỏ qua bởi những người say mê, muốn tìm hiểu sâu sắc về văn chương, bởi, nói như Thụy Khuê “Khi cả người viết lẫn người đọc, cùng hiểu rõ hành động viết và tác động của chữ nghĩa, thì con đường phát triển văn chương nghệ thuật sẽ trở thành đại lộ.”Lược Khảo Văn Học III – Nghiên Cứu Và Phê Bình Văn HọcTrong những năm 1963-1968, NXB Nam Sơn ở Sài Gòn đã ấn hành bộ sách Lược khảo văn học của Nguyễn Văn Trung, gồm ba tập Những vấn đề tổng quát, Ngôn ngữ văn chương và kịch, Nghiên cứu và phê bình văn học. Là tài liệu tham khảo của sinh viên Đại học Văn khoa và Đại học Sư phạm, bộ sách này sớm được Trung tâm Học liệu thuộc Bộ Giáo dục tái bản ngay sau khi ra Giáo sư Triết học, Nguyễn Văn Trung có điều kiện đi sâu tìm hiểu và vận dụng thành tựu của những trào lưu mỹ học đương thời phân tâm học, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc, tiểu thuyết mới, phê bình mới, lý thuyết tiếp nhận. Bộ sách giúp độc giả làm quen với tên tuổi và quan niệm của những học giả nổi tiếng ở phương Tây F. de Saussure, R. Jakobson, G. Lanson, Sartre. Có thể nói, cho đến thời điểm ấy ở nước ta, đây là bộ sách lý luận văn học cập nhật những tư tưởng hiện đại một cách hệ thống ý hướng góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra từ lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Văn Trung đã liên hệ lý thuyết với thực tiễn văn học dân tộc và bước đầu đưa ra những gợi ý cho người sáng tác, phê Mới Và Phát Triển Phê Bình Văn Học, Nghệ Thuật Việt Nam Hiện NayCuốn sách được chia làm ba chươngChương 1 Phê bình và những yếu tố ảnh hưởng đến phê bình văn học, nghệ thuật hiện 2 Phê bình văn học, nghệ thuật hiện nay – thực trạng và nguyên 3 Dự báo tình hình và những giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới, phát triển phê bình văn học, nghệ thuật hiện Mắt TôiTrương Chính từng nói “Nhiệm vụ nhà phê bình không những là phải biết lựa lọc để tìm nâng giấc những tài năng mới phát triển, và đánh đổ những định kiến thiên lệch, những dư luận sai lầm, những lời bình phẩm nông nổi của một số người đối với những kiệt tác. Nhà phê bình còn phải trừ thải những cây bút không tương lai, sắp đặt lại thứ bực đích đáng cho các nhà văn.”Dưới mắt tôi được Trương Chính viết năm 23 tuổi, cái tuổi đủ ngạo khí để nói lên những quan niệm văn chương của mình, đủ dũng khí để phản biện lại những quan điểm không giống mình, đủ cả tinh thần và khí lực để chiến đấu mở cho mình một con đường mới trong địa hạt văn chương. Nhiều người đọc sẽ rất thích Trương Chính vì quan điểm ấy, cũng như cái cách ông thẳng thắn trong phê bình văn chương. Cái cách ông ước định tương lai và bút lực của nhà văn, cái cách ông dùng từ phũ phàng, hoặc cả cái cách đánh giá khắt khe, trắng phớ khen chê.
1. Dẫn nhập 2. Phê bình Mới Anh Mỹ 3. Phê bình Xã hội học 4. Phê bình Phân tâm học 5. Phê bình Nữ quyền luận 6. Phê bình Hậu thực dân I. PHÊ BÌNH MỚI ANH MỸ NEW CRITICISM IN ENGLAND &AMERICA Phê bình Mới Anh Mỹ là gì? - Là một trường phái phê bình có vai trò hàng đầu trong môi trường học thuật ở Anh Mỹ từ những năm 20 đến những năm 60 của thế kỷ XX. - Tập trung khám phá văn bản trên mối quan hệ hữu cơ giữa hình thức và ý nghĩa, không coi trọng các yếu tố nằm ngoài văn bản. -Đặc biệt chú ý thể loại thơ ca. -Tựa trên thành tựu tu từ học, thi pháp học, ngôn ngữ học. - Xác lập những phương pháp Đọc kỹ Close -Reading. -Khái niệm Phê bình mới xuất hiện từ một bài giảng của Joel Elias Spingarn The New Criticism A Lecture Delivered at Columbia University, 9 - 3 -1910 và tên cuốn sách New Criticism của John Crowe Ransom năm 1941. Các thuật ngữ chính Key terms - Hàm hồ Ambiguity - Nghịch lý Paradox - Chủ đề Theme - Cốt truyện Plot - Tính trớ trêu Irony độ chênh giữa điều được nói và điều được ám chỉ, giữa nghĩa đen và nghĩa bóng. - Độ căng Tension - Điểm nhìn Point of view - Dạng mẫu âm thanh patterns of sound - Cấu trúc tự sự narrative structure - Văn bản dị ngữ heteroglossic - Phép chuyển nghĩa [trope] - Các biện pháp tu từ hình ảnh image, ẩn dụ metaphor, biểu tượng symbol, nhịp điệu rhythm … - Lầm lẫn về ý định Intentional Fallacy đánh đồng bài thơ với ý đồ của tác giả. - Lầm lẫn về cảm thụ Affective Fallacy nhầm lẫn ý nghĩa của văn bản với tác động cảm xúc của nó lên độc giả. - Dị biệt về diễn giải Heresy of Paraphrase khi giải thích một bài thơ, việc tóm tắt chi tiết hoặc diễn xuôi thường làm sai lệch văn bản. - Đọc kỹ Đọc gần, Đọc tỉ mỉ Close -Reading /Micro – lecture Đọc tập trung một văn bản, phân tích, lý giải hình thức của văn bản trong mối quan hệ với ý nghĩa. 1. 3. Phương pháp Đi tìm mối quan hệ giữa tư tưởng của văn bản và hình thức của nó. cấp của Đọc kỹ Đọc kỹ có bốn cấp - Cấp 1 Đọc từ vựng và ngữ pháp chú ý các khía cạnh của từ vựng, ngữ pháp và cú pháp, con số của bài diễn văn hay bất kỳ tính năng khác đóng góp cho phong cách cá nhân của nhà văn. Miêu tả hiện tượng. - Cấp 2 Đọc ngữ nghĩa khảo sát về ý nghĩa các từ những thông tin mà bài thơ mang đến. Nhận thức về ý nghĩa. - Cấp 3 Đọc kết cấu Khảo sát các mối quan hệ giữa các từ và các ý nghĩa trong văn bản. Phân tích kiểm tra, sàng lọc, đánh giá - Cấp 4 Đọc văn hóa Khảo sát mối quan hệ của các yếu tố bất kỳ của văn bản với những yếu tố bên ngoài nó văn bản khác của cùng tác giả, hoặc những bài viết khác của cùng loại của các nhà văn khác nhau; các yếu tố của lịch sử xã hội, văn hóa, triết học, tâm lý học. Lý giải 1. Các bước của Đọc kỹ - Khởi đầu đọc vài lần văn bản nắm nghĩa chung. Lập danh sách các yếu tố khảo sát. Với bút chì và văn bản đánh dấu các yếu tố cần chú ý. - Xác định nghĩa của từ, nắm bắt những từ khác lạ, từ khóa. Phân tích mối quan hệ của các từ trong câu lặp, tương đồng, đối nghịch. Lý giải sự lựa chọn của tác giả về các từ có tính cá nhân thế nào? tại sao? - Khảo sát cấu trúc văn bản triển khai thế nào ý tưởng, kết cấu - Khảo sát âm thanh và nhịp điệu các yếu tố này tác động đến ý nghĩa thế nào? Có thể dùng các khái niệm thi pháp học và tu từ học để phân tích. Khảo sát các hình thái diễn ngôn so sánh, ẩn dụ, hình ảnh, biểu tượng. - Khảo sát câu các loại câu, trật tự của câu, nhịp điệu của câu. Chú ý khoảng lặng, độ ngưng, các nghịch đảo, song song, lặp lại... Phân tích các yếu tố làm nên tính mơ hồ, đa nghĩa. - Khảo sát văn cảnh Phân tích - Khảo sát tính chất trớ trêu của văn bản - Khảo sát giọng điệu của nhân vật, người tường thuật, tác giả quan hệ giữa các yếu tố đó kiến thức tự sự học. Phân tích giọng điệu, phong cách. Tìm ra sự lựa chọn của tác giả trong sự kết hợp của tất cả các yếu tố nói trên để tạo ra một văn bản độc đáo. - Khảo sát các biện pháp tu từ đã sử dụng ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, hình tượng, biểu tượng… - Khảo sát chủ đề Phát hiện hệ thống chủ đề - Phát hiện giới tính của văn bản - Xác định cốt truyện - Xác lập một đề tài để viết về văn bản, chọn chìa khóa để mở cánh cửa vào văn câu hỏi thường gặp với người đọc Phê bình Mới -Tính hàm hồ của ngôn ngữ? Kết cấu ngôn ngữ? Các tiềm năng liên tưởng của ngôn ngữ văn chương? - Các thủ pháp văn chương đặc thù? Hàm ý của các thủ pháp này? - Phép điệp, phép so sánh, phép liệt kê, phép chơi chữ?phép chuyển nghĩa [trope]? Phép gián cách hay tạo cự ly? Các mệnh đề song song? Các nhịp điệu, vần? - Các nghịch lý về ý nghĩa và từ ngữ? -Những mỉa mai? mâu thuẫn? - Hiệu ứng của hình thức? - Các hình thức bất thường của câu? - Những mù mờ confusion về quy chiếu? - Những chuyển động trong văn bản? - Hệ thống hình tượng? Hệ thống ẩn dụ? Hệ thống biểu tượng? - Các thiết kế tự sự? Câu chuyện được kể ra như thế nào? - Mạch văn bản? Tuyến trần thuật? -Tác phẩm bắt đầu từ đâu? kết thúc thế nào? - Cách quan sát và miêu tả ? - Quan hệ giữa chủ thể và đối tượng? - Hành trình ý thức? khách quan? chủ quan? - Hiệu ứng lạ hóa? Có sự phá vỡ “tầm đón đợi” không? - Các chủ đề được phát ngôn như thế nào? Chủ đề then chốt của tác phẩm nằm ở đâu? Độ căng của chủ đề? - Các môtip giới thiệu trực tiếp/ gián tiếp - Vai trò giải trung tâm của nhân vật? - Các cuộc đối thoại có những ý nghĩa gì? - Các loại ý nghĩa? Nghĩa thông thường/ nghĩa hiển ngôn/ nghĩa đặc thù/ nghĩa tiềm ẩn nghĩa riêng? -Ý nghĩa xã hội khác nhau trong nhân vật? Giải mã những suy nghĩ của nhân vật? - Kỹ thuật xây dựng vở kịch? Diễn tiến của kịch? Hậu trường của cuộc đối thoại? Các ý định bị che giấu? -Văn bản có tập hợp ở trong mình nhiều dạng thức ngôn ngữ không? Văn bản dị ngữ -heteroglossic - Phong cách ngôn ngữ của nhân vật riêng/ chung? - Sắc thái diễn ngôn? uy quyền? mềm mỏng? biến hóa? đơn nghĩa và độc thoại - Có trích dẫn hoặc phong cách hóa và quy chuẩn hóa một diễn ngôn khác không? Ý nghĩa của việc đối thoại hóa dialogization? Những động thái đối thoại hóa? -Những từ ngữ hay hình ảnh đặc thù được dùng để thể hiện các ý nghĩa phổ quát? -Ngôn ngữ và ý nghĩa, tinh thần và vật chất, nội dung và hình thức, cái đặc thù và cái phổ quát… tương hợp, dung hòa với nhau như thế nào? -Có hòa giải thành công giữa những điều trái ngược? “Hòa điệu của những xung khắc” cái phổ quát và cái đơn nhất? Các ý nghĩa phổ quát và những nét đặc thù cụ thể?... -Những hình tượng trong tương quan với vẻ ngoài? - Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên? - Tính chất của chủ thể? - Tính chất bất ổn của tri giác? - Tính nước đôi của bài thơ? - Tính chất phân mảnh thời gian, không gian, ý nghĩa… - Ký ức và trí tưởng tượng? - Các dạng ý nghĩa tôn giáo, văn hóa, chính trị… .... cầu -Tiếp cận sâu về văn bản trong khả năng cao nhất. - Lập một hê thống câu hỏi chi tiết. - Giữ lại tính đa nghĩa và phức tạp của văn bản. 1. luận Là một phương pháp thực hành, phê bình Mới Anh Mỹ chủ yếu tập trung vào mô tả, phân tích, lý giải hơn là nhận định về giá trị thẩm mỹ hay ý nghĩa cách tân của các tác phẩm văn học. Ảnh hưởng lâu dài, sâu đậm Phê Bình Mới được giảng dạy trong hầu hết các trường đại học Mỹ, và từ Mỹ, lan rộng sang hầu hết các quốc gia nói tiếng Anh khác. về phân tích thơ ca. Rèn luyện kỹ năng phân tích sâu văn bản, là phương pháp trợ thủ hữu hiệu cho các phương pháp khác. 2. PHÊ BÌNH XÃ HỘI HỌC - SOCIOCRITICISM Phê bình Xã hội học là gì? - Là một trường phái phê bình manh nha vào thế kỷ 19, hình thành và phát triển mạnh vào thế kỷ 20, phân nhánh và dung hợp vào thế kỷ 21. - Khi tiếp cận sự kiện văn học, tập trung khảo sát những yếu tố xã hội có mặt trong văn bản. Xác lập, miêu tả, lý giải những tương quan giữa xã hội và tác phẩm văn học. - Đề cao lý trí, chú ý con người xã hội và xem trọng mối quan hệ nhân quả giữa xã hội và văn học. - Khái niệm “socio-critique” được Claude Duchet khai sinh năm 1971, khi ông đề nghị một cách đọc lịch sử -xã hội về văn bản, ấy là “một thi học nghiên cứu về tính xã hội, gắn liền với một cách đọc trên góc độ hệ tư tưởng, chú ý sự đặc thù của văn bản” C. Duchet - Phê bình Xã hội học hiện đại hiện nay có ba nhánh chính 1 Xã hội học về công việc sáng tạo Lucien Goldmann 2 Xã hội học về trường văn học Pierre Bourdieu 3 Xã hội học về tiếp nhận Hans Robert Jauss. Các phương pháp chính của Phê bình Xã hội học Các bước tiến hành của phê bình Xã hội học truyền thống 1. Chọn văn bản 2. Xác định bối cảnh ra đời của tác phẩm. 3. Tóm tắt nội dung tác phẩm. 4. Xác lập hệ thống nhân vật. 5. Xác định mâu thuẫn xã hội và tính giai cấp của các nhân vật trong tác phẩm. 6. Xác định tính điển hình của nhân vật. 7. Xác định tính điển hình của hoàn cảnh 8. Xác định xu hướng chính trị của nhà văn. 9. Đi tìm giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Các bước tiến hành của phê bình Xã hội học hiện đại 1. Chọn văn bản 2. Xác lập các cấu trúc ý nghĩa trong tác phẩm. 3. Xác lập các cấu trúc xã hội tương ứng. 4. Cắt nghĩa mối quan hệ giữa cấu trúc ý nghĩa này với cấu trúc xã hội. 5. Khảo sát sự vận động của các cấu trúc trên. 6. Phát hiện mối quan hệ giữa giữa tư tưởng tác giả và tư tưởng tác phẩm nhất quán hay có một độ chênh nhất định 7. Khảo sát yếu tố chính trị trong tác phẩm văn học văn học hậu thực dân. 8. Chú ý tính xã hội- lịch sử của cách viết. 9. Khảo sát tác động của xã hội cơ chế, chính sách với tác phẩm và tác giả xã hội học văn học. 10. Khảo sát tác động của công chúng với tác phẩm và tác giả mỹ học tiếp nhận. 11. Khảo sát yếu tố giới tính trong tác phẩm văn học văn học nữ quyền. 2. 3. KẾT LUẬN 1. PBXHH là trường phái phê bình có lưu vực rộng nhất và giòng chảy dài nhất so với những trường phái PB khác. 2. Nếu phê bình xã hội học truyền thống nặng tínhquy phạm và quyết định luận thì phê bình xã hội học hiện đại cởi mở hơn, đã làm mới lại lịch sử văn chương bằng một kiếm tìm mở rộng, thông thái và nhạy cảm về phương diện xã hội. Mặt khác, nhờ những tìm tòi trên thực tế văn bản mà nó tiếp cận với ký hiệu học văn học và phân tâm học. 3 .PHÊ BÌNH PHÂN TÂM HỌC PSYCHO-CRITICISM Phê bình phân tâm học là gì? - Là xu hướng phê bình manh nha từ cuối thế kỷ XIX, với lý thuyết Phân tâm học Psychoanalysis của Sigmund Freud, phát triển mạnh mẽ trong nửa đầu thế kỷ XX, phân nhánh& dung hợp nửa sau thế kỷ XX. - Tiếp cận tác phẩm văn học trên các nguyên tắc về tâm lý học, cụ thể là vô thức. Với S. Freud là vô thức cá nhân, với Jung là vô thức tập thể. - Thuật ngữ phê bình Phân tâm học được khai sinh bởi Charles Mauron năm 1949. - Phê bình phân tâm học là một phương pháp diễn dịch. - Đối tượng của PBPTH là tâm lý của tác giả, tâm lý của nhân vật và tâm lý của độc giả. - Có hai xu hướng PBPTH cổ điển & PBPTH hiện đại Sau S. Freud, phê bình phân tâm học phát triển theo nhiều hướng 1. Tập trung vào tác giả và tiểu sử tác giả Marie Bonaparte 2. Kết hợp cả hai khuynh hướng, nghiên cứu chủ đề Charles Mauron, Vô thức trong tác phẩm và cuộc đời của Racine, G. Bachelard. 3. Tập trung vào văn bản Jean- Bellemin Noël 4. Nghiên cứu văn hóa với tâm bệnh học tộc người G. Devereux 5. Kết hợp phân tâm học và Thiền E. Fromm 6. Kết hợp phân tâm học và folklore V. Dundes 7. Phên tâm học tập trung vào người đọc N. Holland 8. Phân tâm học và cấu trúc - kí hiệu học Jacques Lacan Gợi ý về phương pháp Có nhiều hướng tiếp cận 1. Nghiên cứu nhà văn như một cá thể hoặc loại hình Tiến hành phân tâm tác giả. 2. Nghiên cứu quá trình sáng tác. 3. Nghiên cứu các loại hình và phép tắc tâm lý trong tác phẩm cấu trúc tâm lý nhân vật, khám phá ý nghĩa tiến hành phân tâm nhân vật trong tác phẩm, khi đó ít nhiều người ta xem nhân vật như là những con người thực, hình dung có một “vô thức của văn bản” thuộc về tác phẩm. 4. Nghiên cứu tâm lý độc giả thị hiếu, xu hướng đọc, những chia sẻ/ không chia sẻ… Các tiêu điểm cần phân tích -Vô thức -Bản năng tính dục -Cấu trúc nhân cách - Giấc mơ - Mặc cảm Oedip -Xung đột về tâm lý -Những mâu thuẫn, bất thường trong diễn ngôn - Các chủ đề - Hiện tượng chia cắt separation - Những môtíp mất mát loss, chấn thương, lo âu, sợ hãi, ám ảnh, trầm uất, mộng du, kháng cự, tự vệ, bế tắc và hòa giải … - Hiện tượng thiếu hụt/ bù trừ, ngưng đọng/ dịch chuyển, mất trật tự về ranh giới, lẫn lộn giữa thế giới bên trong và thế giới bên ngoài, che giấu, thèm muốn, ngụy trang, thiếu ý thức về bản thân, không nối kết được với người khác… -Các từ ngữ thuộc tính dục và các biểu hiện tính dục của nhân vật - Cắt nghĩa hiện tượng tâm lý bằng nguồn gốc cá nhân/ nguồn gốc gia đình, xã hội… kiện để thực hành PBPTH -Thành thạo lý thuyết Freud - Hiểu biết thấu đáo về lịch sử thời đại hoặc về ngôn ngữ. -Huy động cảm xúc ở cường độ cực mạnh. -Có khả năng phân tích và tự phân tích thường xuyên Kết luận 1. Bị định kiến của xã hội 2. Phạm vi tác phẩm khảo sát hẹp 3. Nghiên cứu phê bình là công việc của ý thức mâu thuẫn. 4. Kỹ năng phân tích, cần kết hợp với nhiều thao tác khác, khó 5. Dễ bị suy diễn khiên cưỡng mơ hồ 4. PHÊ BÌNH NỮ QUYỀN FEMINISM CRITICISM Phê bình nữ quyền là gì? Là một trường phái phê bình văn học thoát thai từ phong trào chính trị xã hội đấu tranh cho quyền bình đẳng phụ nữ, phát triển mạnh mẽ vào giữa thế kỷ XX, chủ trương xác lập một nền mỹ học, lý luận văn học và sáng tác văn học riêng cho giới nữ. Những dung hợp • Phê bình Nữ quyền văn bản • Phê bình Nữ quyền phân tâm học • Phê bình Nữ quyền hậu cấu trúc luận • Phê bình Nữ quyền duy vật • Phê bình nữ quyền hậu hiện đại • Phê bình nữ quyền và đồng tính • Phê bình nữ quyền hậu thuộc địa • Phê bình nữ quyền và kỹ thuật thân thể Gợi ý phương pháp tiếp cận nữ quyền - Chọn văn bản - Chú ý tác giả -Khảo sát nhân vật - Khảo sát điểm nhìn -Khảo sát hệ chủ đề -Phân tích diễn ngôn -Lý giải Các câu hỏi khi đọc nữ quyền? - Nên chọn văn bản nào? truyền miệng/ viết cũ/ mới, đàn bà/ đàn ông, tự sự/ trữ tình? -Tác phẩm được thừa nhận/ bị quên lãng/ bị phê phán? -Các nhân vật nào mang tư tưởng nữ quyền? -Các nhân vật nào mang số phận nữ giới? Kết luận Phê bình văn học Nữ quyền có lịch sử không dài, phát triển theo hướng phân nhánh và dung hợp với các trường phái khác. 5. PHÊ BÌNH HẬU THỰC DÂN POSTCOLONIAL CRITICISM 5. bình Hậu thực dân là gì? Là trường phái phê bình thuộc phạm trù hậu hiện đại, chủ trương đi tìm trong tác phẩm văn học các dấu vết của chính sách thực dân. Xuất hiện vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, bắt nguồn từ tác phẩm Orientalism 1978 của Edward W. Said và tiểu luận "Postcolonial Criticism" 1992, Homi K. Bhabha. Phê bình hậu thực dân chịu ảnh hưởng PB Marxist, Phê bình Giải Cấu trúc và tư tưởng Michel Foucault . 5. 2. Các khái niệm chính? Cái khác Other/ Sự khác biệt Difference Chủ nghĩa độc tôn Monocentrism Tính nước đôi Ambivalent Tính lai ghép Hybridity Tính bắt chước Mimic Văn học hậu thực dân Post-colonialist literature Sự đề kháng Resistance Chủ nghĩa quốc gia Nationalism Diễn ngôn hậu thực dân Postcolonial discourse Diễn ngôn thực dân Colonial discourse Đối tượng -Văn học trong các nước thuộc địa/ văn học ở các nước thực dân -Văn học trong thời kỳ bị chiếm đóng/ Văn học từ thời kỳ bị chiếm đóng đến nay -Những hệ quả mà chính sách thực dân để lại trên đời sống văn học áp đặt, ảnh hưởng, kháng cự, tái tạo, những mâu thuẫn trong tâm thức dân tộc tự tôn/ tự ti, hoài cổ/ chạy theo cái mới, văn hóa, lịch sử bị phân mảnh, cắt vụn.“Người dân thuộc địa có rất nhiều quá khứ nhưng lại không có lịch sử” Nguyễn Hưng Quốc - “Văn học hậu thực dân” có các chủ đề chính +Sự biến đổi hay sự ăn mòn văn hóa xã hội Dường như mỗi khi nền độc lập được hình thành, một vấn đề chủ yếu lại nảy sinh; đâu là đặc trưng văn hóa mới? +Sai lầm trong đường lối vận dụng quyền lực và khai thác Mặc dù đã không còn bị lèo lái như một thuộc địa, người dân bản xứ dường như vẫn còn bị áp chế bởi những người định cư tại đây. Câu hỏi đặt ra là, ai là kẻ thực sự nắm quyền ở đây, và làm sao để ngày Độc lập thực sự mang ý nghĩa độc lập? +Sự tan rã và chuyển hóa của thuộc địa Chủ đề này thường được đưa ra để khảo cứu về cá nhân thay vì về tổng thể miền đất hậu thuộc địa. Những con người cá nhân thường tự hỏi mình; trên đất nước mới này, điều gì phù hợp với mình và mình có thể kiếm sống bằng cách nào? +Ứng dụng văn học Anh ngữ người ta có thể hỏi liệu ta có thể đạt được yêu cầu mục đích của các môn học hậu thuộc địa, ví dụ như phân tích văn học và văn hóa hậu thuộc địa, mà không quan tâm tới những tác phẩm văn học được viết bằng ngôn ngữ gốc của các quốc gia hậu thuộc địa hay không. Những gợi ý về phương pháp Triển khai từ các khái niệm xem mục Chú ý các yếu tố sau trong văn bản -sự hòa trộn của tái hiện và thực tại hoặc về việc lẫn lộn tái hiện với thực tại -mặc cảm tự ti/tự tôn dân tộc -những khúc xạ - những đồng hóa - sự tái hiện lịch sử - quá khứ và hiện tại, tái hiện và thực tại - bạo lực đế quốc. - kháng cự/ tuân phục - quyền lực về kinh tế, quyền lực về tình dục câu hỏi thường gặp khi đọc Phê bình Hậu thực dân -Các văn bản văn học tái hiện, hiển lộ hay ẩn ngầm, các phương diện của các áp chế thực dân như thế nào? -Văn bản tiết lộ những gì về sự phức tạp trong bản sắc hậu thuộc địa, bao gồm mối quan hệ giữa bản sắc văn hóa và bản sắc cá nhân, và những vấn đề như ý thức kép, và sự lai tạp? -Những người hay nhóm người nào được định nghĩa là “người khác” hay kẻ xa lạ trong tác phẩm? Những người/nhóm người đó được miêu tả và đối xử như thế nào? -Văn bản tiết lộ những gì về mặt chính trị / tâm lý của làn sóng chống thực dân? -Văn bản tiết lộ những gì về những tác động của sự khác biệt văn hóa – cách thức mà sắc tộc, tôn giáo, giai cấp, phái tính, định hướng giới tính, tín ngưỡng văn hóa, và phong tục kết hợp với nhau tạo nên bản sắc cá nhân – trong việc định hình nhận thức của chúng ta về bản thân và người khác, và về thế giới mà chúng ta đang sống bên trong? -Văn bản trả lời hay đưa ra nhận xét đối với những nhân vật, đề tài, hay giả thuyết của một tác phẩm thực dân được đề cao như thế nào? -Các nền văn học của các cộng đồng hậu thuộc địa có những điểm chung quan trọng nào? luận Là một trường phái tiếp cận trên xu hướng văn hóa chính trị, Phê bình Hậu thực dân ngày càng phát triển theo hướng phân nhánh ở các quốc gia. Đề cương bài giảng PGS. Ts. Nguyễn Thị Thanh Xuân GV Trường Đh KHXH&NV Tp. HCM Khoa Văn học&Ngôn ngữ > Bài viết được đăng 20/3/2014
Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy khi đánh giá về tình hình phê bình văn học theo phong cách học ở nước ta đã có lí khi cho rằng “Phê bình phong cách một tác phẩm hoặc một nhà văn chỉ bằng một vài nhận xét thì đã có nhiều. Nhưng phê bình phong cách học thì hãy còn là một con đường đang được khai phá. Và đi trên con đường này, lữ khách không chỉ bỏ lại đằng sau những các trang bị cũ, mà còn phải học hỏi và sử những công cụ mới. 10 trang Chia sẻ truongthinh92 Lượt xem 1350 Lượt tải 0 Bạn đang xem nội dung tài liệu Phong cách học với nghiên cứu, phê bình văn học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênTạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014 _____________________________________________________________________________________________________________ 172 PHONG CÁCH HỌC VỚI NGHIÊN CỨU, PHÊ BÌNH VĂN HỌC NGUYỄN HUY PHÒNG* TÓM TẮT Phong cách học là một ngành khoa học nghiên cứu văn chương. Từ lâu nó được biết đến với tư cách là một công cụ phê bình văn học hiệu quả trong việc chỉ ra những nét độc đáo, đặc trưng trong sáng tác của mỗi nhà văn. Tuy nhiên, những vấn đề về nội hàm khái niệm, việc xây dựng những tiêu chí đánh giá theo phong cách học vẫn tồn tại nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau. Việc nhìn nhận lại sự ra đời, phát triển và những ứng dụng của phong cách học đối với phê bình văn học trong và ngoài nước là cần thiết để khẳng định tầm quan trọng của phong cách học đối với đời sống nghiên cứu, phê bình văn học hôm nay. Từ khóa phong cách học, nghiên cứu phê bình văn học. ABSTRACT Stylistics in literary studies and criticism Stylistics is a science of literary studies. It has long been known as an effective instrument of literary criticism in order to point out the unique and characteristics of a writer's work. However, there have been different views on the connotation of stylistics and development of evaluation criteria for this concept. It is crucial to re-acknowledge the formation, development and application of this science in literary criticism so as to confirm the importance of stylistics in contemporary literary studies and criticism. Keywords stylistics, literary studies and criticism. * ThS, Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh 1. Đặt vấn đề Đánh giá về sự phát triển của một nền văn học, có ý kiến cho rằng đó là sự phát triển của các thể loại; ý kiến khác thì khẳng định đó là sự xuất hiện, phát triển của các trường phái, trào lưu, các phương pháp sáng tác...; và một số nhà nghiên cứu thì nhấn mạnh, đề cao sự xuất hiện của các phong cách nghệ thuật lớn. Bởi mỗi nhà văn, bằng tài năng và nỗ lực sáng tạo không ngừng, sẽ tạo cho mình một lối viết, một phong cách riêng trong việc khám phá, phản ánh những vấn đề của hiện thực đời sống. Và chính nhờ sự độc đáo, khác lạ trong cách khám phá, cách nêu và giải quyết vấn đề sẽ tạo ra sự phong phú, đa dạng trong đời sống văn chương, phản ánh sinh động quy luật, bản chất của nghệ thuật sự khác lạ, không lặp lại. Nghiên cứu, phê bình văn học theo phong cách học là khuynh hướng phê bình xuất hiện sớm và đã đạt được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, những vấn đề lí luận về phong cách đến nay vẫn tồn tại nhiều cách hiểu chưa thống nhất, nội hàm khái niệm, phạm vi ứng dụng của phong cách học với thi pháp học, phương pháp sáng tác vẫn còn chưa rõ ràng, khó phân định rạch ròi. Vì thế trong bài viết này, Ý kiến trao đổi Nguyễn Huy Phòng _____________________________________________________________________________________________________________ 173 chúng tôi muốn đưa ra cái nhìn tổng quan về phong cách học từ nguồn gốc tên gọi, các ý kiến, quan điểm của các nhà lí luận phê bình xung quanh thuật ngữ, nội hàm khái niệm phong cách đến việc ứng dụng phong cách học trong nghiên cứu văn học trên thế giới và ở Việt Nam...; từ đó thấy được ưu thế, vị trí và vai trò quan trọng của phong cách học trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học. 2. Về thuật ngữ phong cách học Thuật ngữ Stylos Hi Lạp, Stylus La Mã, Style Pháp có nghĩa là phong cách học, ra đời sớm nhất ở Hi Lạp - La Mã cổ đại với ý nghĩa ban đầu chỉ nét chữ, bút pháp, nghĩa rộng hơn là chỉ tình yêu ngôn ngữ, nghệ thuật dùng từ. Như vậy trong khái niệm ban đầu, phong cách học thuộc lĩnh vực của ngôn ngữ học. Điều đó được minh chứng trong các công trình nghiên cứu của Arixtôt, Gôraxia, Xixêrôn, Xkaligher... Sang đến thời cận đại, khái niệm phong cách học không chỉ được hiểu trong phạm vi hẹp của ngôn ngữ học mà nội hàm khái niệm đã được mở rộng. Phong cách học được coi là đặc trưng nghệ thuật của nghệ thuật, một phạm trù thẩm mĩ, một hệ thống nghệ thuật biểu hiện hình thức của tác phẩm. Nhà nghiên cứu I. Vinkenman cho rằng “Phong cách học là một phương hướng riêng biệt trong nghệ thuật hình thành ở thời đại nào đó và là một hệ thống xác định của các dấu hiệu nghệ thuật tư tưởng” [3, Cùng với sự phát triển của các khuynh hướng nghiên cứu, phê bình, của đời sống văn chương nghệ thuật, tới thời hiện đại, phong cách học được coi là một phạm trù thẩm mĩ, một hiện tượng văn học nghệ thuật bao gồm trong đó tất cả sự đa dạng và phức tạp của nó. Phong cách được nghiên cứu trong mối tương quan với tư tưởng, với nhà văn và với thời đại. Có thể nói, xoay quanh khái niệm phong cách học có rất nhiều ý kiến, quan điểm bình luận, đánh giá nhằm xác định rõ nội hàm, phạm vi, đặc trưng của lĩnh vực nghiên cứu. Nhưng càng nghiên cứu, các nhà khoa học lại càng nhận ra sự đa dạng, phức tạp của đối tượng. Theo Khrapchenko thì “hiện đang tồn tại một số lượng rất lớn những định nghĩa khác nhau về phong cách học văn học. Những định nghĩa này xòe ra như cái quạt giữa sự thừa nhận phong cách là một phạm trù lịch sử - thẩm mĩ rộng nhất, bao quát và sự nhìn nhận nó như những đặc điểm của những tác phẩm riêng lẻ” [3, Và với quan điểm của mình, ông khẳng định “Phong cách là phương pháp biểu đạt cách chiếm lĩnh đời sống bằng hình tượng, là phương pháp thuyết phục và hấp dẫn người đọc” [3, Như vậy, phong cách ngoài các tính chất khác, nó là biện pháp nghệ thuật, là các thủ pháp thể hiện tư tưởng và hình tượng một cách tiết kiệm, hiệu quả nhất của người nghệ sĩ. Còn theo cách hiểu truyền thống, thì phong cách được hiểu đó là tính cá thể, độc đáo, là một hệ thống các phương tiện biểu đạt, là hình thức nghệ thuật được xem xét trong tính quy luật và các nguyên tắc hài hòa. Trước sự phát triển mạnh mẽ của đời sống văn học cũng như sự xuất hiện của các khuynh hướng, trường phái Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014 _____________________________________________________________________________________________________________ 174 nghiên cứu, phê bình mới, phong cách học cũng đã được khu biệt, nhìn nhận một cách thỏa đáng vơi những tiêu chí nhận diện cụ thể mang tính đặc trưng so với các khuynh hướng phê bình khác. Bằng những lí thuyết về văn học và thực tiễn ứng dụng, các nhà nghiên cứu, phê bình đã dần bổ khuyết và lấp đầy những khoảng trống về lí luận của lĩnh vực nghiên cứu phức tạp nhưng đầy triển vọng như phong cách học. 3. Một số quan điểm của các nhà lí luận phương Tây về phong cách học Nói tới phong cách học, người đọc thường liên tưởng tới lĩnh vực nghiên cứu của ngôn ngữ học, mà bản chất của văn chương là nghệ thuật ngôn từ, lấy ngôn từ làm chất liệu, phương tiện biểu đạt nội dung, hình tượng, tư tưởng. Đúng như M. Gor-ki từng nói “ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học”, vì vậy khi đề cập vấn đề phong cách, hầu hết các nhà nghiên cứu đều dành sự quan tâm đặc biệt đến yếu tố ngôn ngữ, coi đó là một trong những yếu tố quan trọng quyết định phong cách của nhà văn. Vinôgrađốp cho rằng để hiểu được phong cách của nhà văn phải dựa vào sự am hiểu sâu sắc ngôn ngữ của văn học nghệ thuật trong tính đa dạng về thể loại, dựa vào sự hiểu biết các quy luật phát triển đặc điểm phong cách của thể loại “Phong cách đó là một hệ thống sử dụng về mặt mĩ học cá nhân những phương tiện biểu đạt bằng ngôn ngữ vốn có của thời kì nhất định của sự phát triển văn học nghệ thuật” [3, Pacpêlôp cũng khẳng định thành phần của phong cách gồm có ngôn ngữ, cốt truyện, những chi tiết biểu hiện. Ngôn ngữ là sự thể hiện cảm xúc rõ ràng nhất của phong cách. Cùng quan điểm này, nhà nghiên cứu Ya. Elxberg cho rằng “Phong cách trước hết bao trùm ngôn ngữ của tác phẩm, tức là ngôn ngữ nghệ thuật, thể loại, bố cục, nhịp điệu, thanh điệu, ngữ điệu, vần điệu. Nhưng đồng thời phong cách ảnh hưởng cả một số phạm trù của nội dung như tính cách, cốt truyện, tính hình tượng của tác phẩm nói chung” [3, Cụ thể hơn, V. Turin đã cụ thể hóa khái niệm phong cách học – “đó là ngôn từ được xét trong mối quan hệ của nó với hình tượng, đó là tác động qua lại thường xuyên giữa những khái niệm và những ý nghĩa nảy sinh trong ngôn từ vốn đặt vào một văn cảnh nghệ thuật” [3, Là một ngành khoa học đứng giữa ngôn ngữ và văn chương nên đôi khi việc xác định nội hàm khái niệm phong cách học vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Nhà nghiên cứu Đ. Likhachev đề nghị cần phân biệt rõ hai khái niệm phong cách “Phong cách như là hiện tượng ngôn ngữ văn học và phong cách như là một hệ thống hình thức và nội dung nhất định” [3, Còn V. V. Vinogradov lại có cách phân chia phong cách học về văn học thành 2 loại Phong cách học thuộc ngôn ngữ học và phong cách học thuộc nghiên cứu văn học Bên cạnh đó, khái niệm phong cách học cũng thường bị hiểu đồng nhất với thi pháp học, mặc dù giữa hai lĩnh vực nghiên cứu có sự liên hệ, tác động qua lại nhưng không thể đồng nhất. Khác với các đồng nghiệp và những nhà khoa học đi Ý kiến trao đổi Nguyễn Huy Phòng _____________________________________________________________________________________________________________ 175 trước, xem thi pháp học là lí luận văn học, Khrapchenko xem thi pháp học là khoa học nghiên cứu hệ thống các nguyên tắc, phương thức, phương tiện mĩ học dùng để sáng tạo nên các tác phẩm nghệ thuật. Ông cũng phản đối lối đồng nhất hoặc tách rời đơn giản phong cách học với thi pháp học mà cho rằng nên xem phong cách học như là một bộ phận của khoa thi pháp học rộng lớn. Nghiên cứu đặc điểm phong cách và nguyên tắc sáng tạo của nhà văn đều là nhiệm vụ của thi pháp học. Cùng quan điểm này, nhà nghiên cứu B. V. Gornung chủ trương phải phân giới dứt khoát thi pháp học với phong cách học. Ông viết “Phong cách là một tổng thể toàn vẹn những sự kiện biểu cảm khiến cho lời phát ngôn có một sắc thái ý nghĩa trọn vẹn, bất chấp cấu trúc ngữ nghĩa cơ bản của phát ngôn ấy. Cần coi những sự kiện biểu cảm này là những sự kiện phong cách sẽ được nghiên cứu không phải trong thi pháp học và từ chương học mà là trong một bộ môn ngữ văn đặc biệt” [3, Để phân biệt thi pháp học và phong cách học cũng như mối tương quan giữa chúng, những ý kiến của rất đáng được quan tâm vì giàu sức thuyết phục khi ông cho rằng “Thi pháp học như là khoa học về các hình thức, các phương tiện và phương thức tổ chức của các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, về các kiểu cấu trúc và các thể loại tác phẩm văn học; như là một khoa học có xu hướng bao quát không chỉ các hiện tượng ngôn từ thi ca mà còn cả những phương diện rất đa dạng của các tác phẩm văn học thành văn và phong cách của sáng tác ngôn từ dân gian. Còn phong cách học nghiên cứu sự phát triển của các phong cách cá nhân, chiếm vị trí trung tâm trong phong cách học văn học là những quan sát và nghiên cứu trong lĩnh vực các quy luật hình thành và phát triển của các hệ thống biểu hiện ngôn từ nghệ thuật - đây là những hệ thống có tính chất cá nhân hoặc được cá thể hóa, tức là được hình thành như những cấu trúc cố định và hoàn chỉnh - cả trong lịch sử từng nền văn học dân tộc nói riêng, cả trong lịch sử chung của văn học thế giới phong cách tác phẩm văn học, phong cách nhà văn, phong cách trường phái văn học” [3, Nghiên cứu, xem xét phong cách học ở bình diện cấu trúc, đối tượng nghiên cứu, cũng như những yếu tố tác động làm nên phong cách của nhà văn, đã nhận được nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau của các nhà lí luận, phê bình. khi nhận định về phong cách của tác phẩm văn học đã nhấn mạnh sự thống nhất của các yếu tố nội dung và những yếu tố tạo hình thức của phong cách. “Phong cách nghệ thuật của nhà văn là sự biểu hiện thế giới quan của anh ta, thế giới quan đó được thể hiện trong những hình tượng bằng các phương tiện ngôn ngữ. Bởi vậy không thể nghiên cứu phong cách nghệ thuật của nhà văn trong tính mục đích chức năng của nó mà tách rời nội dung tư tưởng - hình tượng của tác phẩm. Đồng thời, phong cách của tác phẩm văn học không phải là tu từ học đề tài, hình tượng, bố cục của tác phẩm văn học, nội dung nghệ thuật của nó nội dung này được thể hiện bằng những Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014 _____________________________________________________________________________________________________________ 176 phương tiện ngôn ngữ nhưng không giới hạn ở từ ngữ cũng là những yếu tố quan trọng của của phong cách, và có thể khá quan trọng, bởi vì chúng xác định cả những nguyên tắc nghệ thuật của việc lựa chọn chất liệu từ ngữ, tức là tu từ học hiểu theo nghĩa hẹp của từ đó” [3, Còn L. Nôvichenkô thì cho rằng phong cách nghệ thuật gắn liền với cá tính sáng tạo và bị chi phối bởi những tác động của thời đại, cộng đồng. “Phong cách học hiểu theo nghĩa chung nhất là vẻ đặc thù trong những tác phẩm của nhà văn hoặc của một nhóm nhà văn, vẻ đặc thù này được quy định bởi những quan điểm chung về cuộc sống và thể hiện trong những đặc điểm có tính chất đặc trưng về nội dung và hình thức của những tác phẩm ấy” [3, Ở góc độ khái quát, Ya. Elxberg cho rằng “Phong cách biểu hiện sự toàn vẹn của hình thức có tính nội dung được hình thành trong sự phát triển, trong tác động qua lại và trong sự tổng hợp các yếu tố của hình thức nghệ thuật, dưới ảnh hưởng của đối tượng và nội dung tác phẩm, của thế giới quan nhà văn và của phương pháp của ta vốn thống nhất với thế giới quan. Phong cách được hình thành từ tất cả những yếu tố ấy, nảy sinh từ chúng mà ra. Phong cách - đó là sự thống trị của hình thức nghệ thuật, là sức mạnh tổ chức của nó.” [3, Với nhà lí luận, phê bình Khrapchenko - người đã dành nhiều thời gian công sức nghiên cứu về phong cách học thì cho rằng “Mỗi một nhà văn có tài đều đi tìm những biện pháp và những phương tiện độc đáo để thể hiện những tư tưởng và hình tượng của mình, những biện pháp và những phương tiện cho phép nhà văn đó làm cho những tư tưởng và những hình tượng ấy trở nên hấp dẫn, dễ lôi cuốn, gần gũi với công chúng độc giả. Và điều đó có nghĩa là nhà văn đã tạo được phong cách của mình. Nếu như dùng một công thức vắn tắt thì phong cách cần phải được định nghĩa như phương thức biểu hiện cách chiếm lĩnh hình tượng đối với cuộc sống, như phương thức thuyết phục và thu hút độc giả” [3, Bàn về những yếu tố làm nên phong cách của nhà văn, Khrapchenko còn cho rằng yếu tố tư liệu và cách xử lí tư liệu cũng giữ vai trò quan trọng. “Phong cách không chỉ được hình thành dưới tác động của đối tượng sáng tác, của tư liệu hiện thực mà còn tích cực tổ chức nên tư liệu đó... Đặc điểm của người nghệ sĩ điêu luyện là biết sắp xếp tổ chức tư liệu, biết tách cái chủ yếu ra khỏi cái ngẫu nhiên, biết khắc phục sự chống đối của tư liệu. Cùng với tư tưởng chung, phong cách cũng có sứ mệnh kết hợp lại lại một chỉnh thể năng động những yếu tố không thuần nhất có trong tư liệu của cuộc sống, trong đối tượng sáng tác” [3, Có thể khẳng định rằng, mặc dù ra đời từ rất sớm nhưng phong cách học chỉ thực sự trở thành một lĩnh vực khoa học nghiên cứu văn học vào thế kỉ XIX. Và với sự nỗ lực tìm kiếm, định hình một dòng, một khuynh hướng nghiên cứu văn học mới, các nhà lí luận phê bình đã tạo được một cơ sở lí luận cho phong cách học. Tuy vẫn còn nhiều những ý kiến Ý kiến trao đổi Nguyễn Huy Phòng _____________________________________________________________________________________________________________ 177 chưa thống nhất trong việc xác định nội hàm, phương pháp, đối tượng nghiên cứu..., nhưng những phát biểu có tính chất khoa học và sự vận dụng có hiệu quả của phong cách học đã góp phần tạo nên những chuyển biến tích cực trong đời sống văn học ở các nước trên thế giới. 4. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng phong cách học ở Việt Nam Sau một thời gian dài kể từ khi Việt Nam mở cửa, tiếp xúc với văn hóa, văn học phương Tây những năm đầu thế kỉ XX, thuật ngữ phong cách học mới được đề cập và xuất hiện lần đầu tiên trong công trình nghiên cứu Thơ Hồ Xuân Hương Nxb Văn học, 1968 của Nguyễn Lộc. Trong công trình này, thuật ngữ phong cách trong phê bình văn học được nêu ra khi nhà nghiên cứu nhận thấy tiêu chí phân biệt thơ Hồ Xuân Hương đích thực và lộn sòng theo “mức độ và tính chất dâm tục” của nhà phê bình Trần Thanh Mại là không thỏa đáng, và ông đề nghị cần phải phân biệt theo phong cách. Tiếp đó trong bài viết “Suy nghĩ về phong cách lớn và phân kì lịch sử văn học Việt Nam” của Đỗ Đức Hiểu in trên Tạp chí Văn học số 3 năm 1985, ông đã đề xuất tiêu chí phân kì các giai đoạn lịch sử văn học cần phải căn cứ vào sự xuất hiện của các tài năng văn học, các nhà nhà văn lớn. Thông qua các tác phẩm có giá trị thời đại sẽ quyết định và chi phối đến đặc trưng và sự vận động, phát triển của cả một giai đoạn, thời kì văn học. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn vừa mang những đặc trưng, dấu ấn cá nhân riêng nhưng đồng thời cũng phản ánh những nét phổ quát của thời đại mình đang sống. Nét nổi bật đó tạo ra những phong cách lớn, tiêu biểu. Vì thế, khi phân chia các giai đoạn, thời kì văn học cần phải quan tâm theo những phong cách lớn. Còn Nguyễn Đăng Mạnh trong cuốn Nhà văn, tư tưởng và phong cách in lần đầu năm 1979, Nxb Tác phẩm mới cho rằng phong cách gắn liền với với cá tính sáng tạo của nhà văn, bởi “văn chương là một hình thái ý thức xã hội có đặc trưng riêng. Đây là lĩnh vực cần đến năng khiếu và tài nghệ, cần cá tính và phong cách” [5, Kế thừa tư tưởng, quan điểm của “Phong cách học chính là nghiên cứu sự phát triển của các phong cách cá nhân”, Nguyễn Đăng Mạnh đã triển khai, bổ sung khi cho ông cho rằng Đánh giá một nhà văn phải căn cứ vào ba tiêu chuẩn chính tư tưởng, tâm hồn lớn và có đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, vì “nghiên cứu một nhà văn xét đến cùng là nghiên cứu tư tưởng của ông ta” [5, Ở một khía cạnh khác, nhà nghiên cứu Đào Thái Tôn trong công trình Thơ Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục Nxb Giáo dục, 1995 khi lí giải cơ sở để nữ sĩ Hồ Xuân Hương lựa chọn thể thơ Nôm truyền tụng đã viện dẫn đến phong cách Lưu hương kí... Nhưng phong cách ấy cụ thể như thế nào thì vẫn chưa được lí giải thấu đáo. Nhìn chung trong các công trình nghiên cứu chuyên biệt, các tác giả mới gọi tên của khuynh hướng phê bình mà chưa đưa ra được cơ sở lí luận cụ thể của phong cách học. Đôi khi còn bị nhầm lẫn Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014 _____________________________________________________________________________________________________________ 178 giữa phong cách tác giả và phong cách tác phẩm. Phải đến khi biên soạn các cuốn Từ điển, các nhà nghiên cứu đã đưa thuật ngữ phong cách học để định danh và khẳng định đó là một lĩnh vực khoa học quan trọng trong nghiên cứu, phẩm bình văn chương. Cuốn 150 thuật ngữ văn học khẳng định “Những đặc điểm phong cách dường như hiện diện ở bề mặt tác phẩm, như là một sự thống nhất hiển thị và cảm giác được của tất cả các yếu tố chủ yếu thuộc hình thức nghệ thuật. Trong nghĩa rộng, phong cách là nguyên tắc xuyên suốt kiến trúc tác phẩm, khiến tác phẩm có tính chỉnh thể, có giọng điệu và màu sắc thống nhất rõ rệt” [1, Tiếp cận, tìm hiểu vấn đề phong cách học từ bình diện lí thuyết qua việc tham khảo các quan niệm, định nghĩa của các nhà nghiên cứu nước ngoài, Tôn Thảo Miên trong các bài viết “Về khái niệm phong cách cá nhân của nhà văn” Tạp chí Văn học số 1/1997, “Một số khuynh hướng nghiên cứu phong cách” Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 5/2006 cũng đã hệ thống lại một cách khái quát các vấn đề thuộc phạm trù nghiên cứu của phong cách học, như phong cách thời đại, cá tính sáng tạo của nhà văn, thế giới quan và tài năng, vấn đề bút pháp, vấn đề ngôn ngữ... Và cuối cùng tác giả đưa ra kết luận “Nhưng tựu trung lại, phong cách được hiểu là sự thống nhất trọn vẹn của nội dung và hình thức, nó tạo nên nét riêng độc đáo của mỗi tác phẩm, đồng thời cũng là nét riêng để phân biệt tác giả này với tác giả khác, thời đại này với thời đại khác” [6, Từ những vấn đề lí luận về phong cách, đặc biệt nhờ vận dụng lí thuyết ngữ học cấu trúc của Ferdinand de Saussure, tác giả Phan Ngọc trong công trình khoa học Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều viết xong năm 1965, in lần đầu năm 1985, Nxb Khoa học Xã hội đã trở thành người đầu tiên thực hành phê bình theo phong cách học ở Việt Nam. Trong lời nói đầu cuốn sách, ông đã đề cập thực trạng nghiên cứu theo phong cách học “Phong cách học, bộ môn của ngôn ngữ học để nghiên cứu phong cách còn gặp rất nhiều khó khăn. Các khái niệm làm cơ sở cho nó như phong cách, phong cách thể hoại, phong cách thời đại, phong cách tác giả, vẫn chưa được xác định một cách nhất quán. Phong cách học chưa xây dựng được cho mình một hệ thống thao tác có hiệu lực để khảo sát phong cách tác giả một cách khách quan Phong cách học đang thiếu một lí luận nhất quán để có thể khẳng định nó như là một khoa học thực sự” [8, Trước những khoảng trống về lí luận phong cách học, tác giả đã bước đầu đưa ra được những quan điểm và cách tiếp cận đối tượng một cách thuyết phục. Theo ông muốn nghiên cứu phong cách của một tác giả, người nghiên cứu cần phải - “Xây dựng lại các khái niệm của môn phong cách học; - Phải tìm ra được những đặc điểm tiêu biểu của tác giả đó về mặt nội dung không lặp lại ở người khác; - Tiếp cận tác phẩm một cách hình thức và chứng minh chính hình thức tác giả lựa chọn là thích hợp để diễn đạt nội Ý kiến trao đổi Nguyễn Huy Phòng _____________________________________________________________________________________________________________ 179 dung này.” [8, Cũng theo Phan Ngọc, “một nghệ sĩ chỉ vĩ đại khi anh ta có những đóng góp đặc biệt mà trong thời đại mình không ai làm được. Không những thế, những đóng góp của anh ta còn vượt xa ngoài thời đại, đến nỗi thời đại sau có thể bắt chước được, mà khó có thể vượt qua”, hay “chỉ nói lên được sự cống hiến nghệ thuật riêng của từng nhà văn, lịch sử văn học mới có sự phát triển thực sự văn học, chứ không phải là lịch sử của những con người làm văn học” [8, Sau khi xác định những thao tác nghiên cứu, tác giả đã đưa ra một định nghĩa về phong cách học “Phong cách học là khoa học khảo sát các kiểu lựa chọn và giá trị biểu cảm của các kiểu lựa chọn ấy” [8, Từ những lí thuyết đó, ông đi sâu vào tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, thực hiện một loạt đối lập Truyện Kiều với tất cả những gì liên quan đến Truyện Kiều trước đó để tìm ra những cái mới, những sáng tạo của thi hào Nguyễn Du trong kiến trúc câu thơ, trong ngôn ngữ, trong ngữ pháp. Tiếp sau cuốn Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Phan Ngọc tiếp tục ứng dụng những khái niệm, thao tác của phong cách học để tìm hiểu, lí giải các hiện tượng độc đáo của đời sống văn học. Trong cuốn Thử xét văn hóa, văn học bằng ngôn ngữ học Nxb Thanh niên, 2000, ông cũng đã có những kiến giải, phát hiện thú vị khi phân tích những chuyển biến của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Tiếp cận tác giả, tác phẩm qua phê bình phong cách học đã giúp Phan Ngọc đạt được nhiều thành công, tạo ra một hướng nghiên cứu mới đầy triển vọng. Nhưng theo nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy thì “Định nghĩa phong cách là sự lựa chọn của Phan Ngọc thật chặt mà cũng thật lỏng. Chặt, khi nhà phê bình xuất phát từ sự lựa chọn ngôn từ của tác giả đi đến sự lựa chọn thể loại, cốt truyện, chủ đề tư tưởng. Lỏng, khi người ta đi ngược lại hành trình này” [12, Là người theo đuổi và có nhiều công trình nghiên cứu về các khuynh hướng phê bình, xuất phát từ ý tưởng của Léo Spitzer 1887-1960 - nhà ngữ văn học, phong cách học người Đức, Đỗ Lai Thúy cho rằng Phong cách là sự lệch chuẩn. Nghĩa là mỗi thời đại văn hóa tạo ra một phong cách của mình, và mỗi nhà văn sống trong thời đại đó lại có phong cách riêng. Phong cách của họ chính là sự lệch so với cái chuẩn của thời đại. Từ những ý tưởng đó, trong chuyên luận Con mắt thơ Nxb Lao động, 1992, nhà nghiên cứu đã dựng nên chân dung sinh động của các nhà Thơ mới với những cá tính, phong cách riêng độc đáo làm nên cả một thời đại trong thi ca. Ông viết “mỗi nhà Thơ mới trước hết đều phải đạt đến phong cách thời đại để rồi chống lại nó thì mới tạo ra được phong cách riêng của mình. Sự chống lại càng quyết liệt bao nhiêu thì sáng tạo cá nhân, tức phong cách riêng càng nổi bật bấy nhiêu” [12, Tiếp sau đó, trong công trình Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực Nxb Văn hóa Thông tin, 1999, ông đã khắc phục được những hạn chế trong nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước khi nhiều người còn quá lệ thuộc vào công Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014 _____________________________________________________________________________________________________________ 180 thức nổi tiếng của Buffon “Phong cách chính là con người” nên đã lẫn lộn phong cách tác giả và tác phẩm. Đỗ Lai Thúy đã tiếp cận vấn đề từ một hướng nghiên cứu mới đó là đi tìm sự lệch chuẩn ngôn ngữ để thấy được phong cách thơ Xuân Hương là một sự lệch chuẩn hoàn toàn so với phong cách Thanh Quan nói riêng và toàn bộ phong cách Đường thi nói chung... Song song với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước 1986, nền văn học nghệ thuật nước nhà cũng có nhiều bước đột phá, phát triển. Việc biên dịch, giới thiệu những lí thuyết, khuynh hướng mới trong lí luận phê bình trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Nghiên cứu, phê bình văn học theo phong cách học ngày càng được ứng dụng rộng rãi và phát huy được hiệu quả to lớn trong đời sống văn học. Điều đó được minh chứng trong các công trình nghiên cứu về phong cách học, các luận án tiến sĩ, thạc sĩ như Văn chương tài năng và phong cách Hà Minh Đức; Nhà văn tư tưởng và phong cách Nguyễn Đăng Mạnh; Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo Trần Đăng Suyền; Văn chương và tác giả, Tài năng và bản lĩnh nghệ sĩ Nguyễn Ngọc Thiện; Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu Tôn Phương Lan, Lí luận và phê bình văn học Trần Đình Sử, Thi pháp hiện đại Đỗ Đức Hiểu Sự gia tăng, phát triển về số lượng các công trình khoa học có ứng dụng những thao tác, phương pháp của phong cách học, một mặt phản ánh ưu thế, triển vọng và tác dụng lớn của phong cách học trong việc đánh giá, thẩm bình các hiện tượng văn chương, mặt khác cũng phản ánh những nỗ lực của các nhà khoa học trong việc nghiên cứu, tìm hiểu và xây dựng một khung lí thuyết, lí luận cho ngành phong cách còn nhiều khoảng trống. Nhìn vào tên nhan đề, danh mục cũng như nội dung của từng chương, bài trong các công trình nghiên cứu trên, người đọc dễ dàng nhận thấy chưa có một công trình, một cuốn sách riêng bàn về phong cách học. Điều đó phản ánh một hạn chế trong nghiên cứu, phê bình theo phong cách học khi những tiêu chí định danh và những thao tác nghiên cứu vẫn chưa được tạo dựng một cách chặt chẽ, bài bản. 5. Kết luận Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy khi đánh giá về tình hình phê bình văn học theo phong cách học ở nước ta đã có lí khi cho rằng “Phê bình phong cách một tác phẩm hoặc một nhà văn chỉ bằng một vài nhận xét thì đã có nhiều. Nhưng phê bình phong cách học thì hãy còn là một con đường đang được khai phá. Và đi trên con đường này, lữ khách không chỉ bỏ lại đằng sau những các trang bị cũ, mà còn phải học hỏi và sử những công cụ mới. Đặc biệt là những thay đổi quan niệm về tác phẩm văn chương, về ngôn ngữ văn chương, về phong cách tác phẩm, tác giả và thời đại. Và, quan trọng hơn sau khi đã mô tả được phong cách như thế nào thì phải lí giải tại sao lại có phong cách ấy từ cái nhìn nghệ thuật và cái nhìn thế giới của nhà văn” [12, Phải chăng đó cũng là nỗi băn Ý kiến trao đổi Nguyễn Huy Phòng _____________________________________________________________________________________________________________ 181 khoăn chung và là nhiệm vụ lớn lao cao cả đang đặt ra cho các nhà lí luận phê bình có trách nhiệm, tài năng, tâm huyết trong việc xây dựng một bộ môn phê bình phong cách học để đáp ứng tốt những yêu cầu, đòi hỏi của đời sống văn học dân tộc hôm nay? TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân biên soạn 2004, 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Đỗ Đức Hiểu 1985, “Suy nghĩ về phong cách lớn và phân kỳ lịch sử văn học”, Tạp chí Văn học, 3, 3. M. B. Khrapchenko 2002, Những vấn đề lí luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, nhiều người dịch, Trần Đình Sử tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 4. Nguyễn Lộc 1968, Thơ Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học. 5. Nguyễn Đăng Mạnh 2001, Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 6. Tôn Thảo Miên 2006, “Một số khuynh hướng nghiên cứu phong cách”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 5, 7. Tôn Thảo Miên 1997, “Về khái niệm phong cách cá nhân của nhà văn”, Tạp chí Văn học, 1, 8. Phan Ngọc 2003, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb Thanh niên. 9. Phan Ngọc 2000, Thử xét văn hóa, văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Thanh niên. 10. Đỗ Lai Thúy 1992, Con mắt thơ, Nxb Lao động. 11. Đỗ Lai Thúy 1999, Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực Nxb Văn hóa Thông tin. 12. Đỗ Lai Thúy 2011, Phê bình văn học con vật lưỡng thê ấy Tư tưởng phê bình văn học Việt Nam một cái nhìn lịch sử, Nxb Hội Nhà văn và công ti Nhã Nam. 13. Đào Thái Tôn 1995, Thơ Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục, Nxb Giáo dục. Ngày Tòa soạn nhận được bài 12-6-2014; ngày phản biện đánh giá 27-6-2014; ngày chấp nhận đăng 23-10-2014 Các file đính kèm theo tài liệu này
Cấu trúc luận, vốn thịnh hành trong thập niên 1960 và nửa đầu thập niên 1970, được xem là một cuộc cách mạng, thậm chí, là cuộc cách mạng lớn nhất trong lãnh vực nghiên cứu văn học cũng như các ngành nhân văn và khoa học xã hội nói chung trong thế kỷ 20. CÁC LÝ THUYẾT PHÊ BÌNH VĂN HỌC 3 Cấu trúc luận Nguyễn Hưng Quốc Cấu trúc luận, vốn thịnh hành trong thập niên 1960 và nửa đầu thập niên 1970, được xem là một cuộc cách mạng, thậm chí, là cuộc cách mạng lớn nhất trong lãnh vực nghiên cứu văn học cũng như các ngành nhân văn và khoa học xã hội nói chung trong thế kỷ 20. Trên căn bản, cấu trúc luận tiếp tục con đường Hình thức luận và Phê Bình Mới đã khai mở, chẳng hạn, tham vọng biến nghiên cứu văn học thành một khoa học trong đó đối tượng phân tích chính là văn bản và chỉ là văn bản mà thôi. Tuy nhiên, từ điểm chung ban đầu ấy, cấu trúc luận đã đi rất xa, hình thành hẳn một hệ thống lý thuyết và phương pháp luận hoàn chỉnh không những chỉ có thể được ứng dụng trong lãnh vực văn học mà còn ở vô số các lãnh vực khác nữa. Cấu trúc luận, trong lãnh vực văn học, được xây dựng trên ba nền tảng chính Thứ nhất, lý thuyết ngôn ngữ của Ferdinand de Saussure 1857-1913, người đã chủ trương, một, về phương diện phương pháp luận, chỉ quan tâm đến khía cạnh đồng đại mà loại bỏ khía cạnh lịch đại của ngôn ngữ; hai, ở khía cạnh đồng đại, chỉ tập trung vào tính hệ thống với những quy luật và quy ước chung nhất và loại bỏ những biểu hiện của cái hệ thống ấy, ví dụ, những lời nói cụ thể hàng ngày; và ba, với tư cách là một hệ thống, ngôn ngữ thực chất là những ký hiệu; mỗi ký hiệu là một kết hợp gồm hai mặt, cái biểu đạt signifier và cái được biểu đạt signified, gắn chặt với nhau bằng một thứ quan hệ rất tương đối và hàm hồ, ở đó, ý nghĩa chỉ được hình thành từ những sự khác biệt giữa các ký hiệu. Thứ hai, các phát hiện của Nhóm ngôn ngữ học Prague trong đó nổi bật nhất là Roman Jakobson, người đã đề xuất cách định nghĩa thơ dựa trên các chức năng giao tiếp theo ông, ngôn ngữ, trong giao tiếp, mang nhiều chức năng khác nhau, nhưng khi chức năng thi ca chiếm vai trò chủ đạo, nghĩa là khi sự giao tiếp chỉ tập trung vào bản thân thông điệp, vào ngôn ngữ tạo thành thông điệp, lúc ấy người ta có thơ. Thứ ba, các công trình nghiên cứu nhân chủng học về huyền thoại, hệ thống thân tộc, cách nấu nướng và cách tư duy trong các xã hội sơ khai của Claude Levi-Strauss, người đã làm sáng tỏ cái điều Roland Barthes khái quát thành luận điểm “văn hoá, trong mọi khía cạnh, là một ngôn ngữ.”[1] Trong lời dẫn nhập bài luận văn phân tích bài thơ “Những con mèo” của Baudelaire viết chung với Jakobson, Levi-Strauss tuyên bố “Trong các tác phẩm thơ ca, nhà ngôn ngữ học nhận ra các cấu trúc rất giống với các cấu trúc trong các huyền thoại mà các nhà dân tộc học đã từng bắt gặp trong quá trình phân tích của họ.”[2] ược xây dựng trên nhiều nền tảng như vậy, khác với Hình thức luận và Phê Bình Mới, cấu trúc luận có tính chất liên ngành rõ rệt. Với các nhà cấu trúc luận, nghiên cứu văn học chỉ là một lãnh vực của hệ thống ký hiệu học rộng lớn và đa dạng. Bởi vậy, cấu trúc luận không phải chỉ là một phương pháp luận, một lý thuyết hay một trường phái mà còn là cả một trào lưu. iểm chung của cả trào lưu cấu trúc luận là ở đâu người ta cũng theo đuổi một mục tiêu giống nhau cấu trúc. uổi theo cấu trúc, các nhà cấu trúc luận không quan tâm đến ý nghĩa của từng tác phẩm cụ thể như các nhà Phê Bình Mới. Họ cũng không quan tâm đến cái gọi là tính văn chương như các nhà Hình thức luận. Với các nhà cấu trúc luận, mục tiêu cao nhất của nghiên cứu văn học là phát hiện ra ngữ pháp’ của văn chương, tức những quy ước làm cho một hình thức diễn ngôn nào đó trở thành văn chương. Công cuộc tìm kiếm ngữ pháp’ văn chương ấy, ở Roland Barthes, dẫn đến lý thuyết về các mã’ codes chi phối cách vận hành’ của tiểu thuyết; ở Tzvetan Todorov và Gérard Genette, sự phát triển của thi pháp học, tự sự học narratology và lý thuyết về các thể loại; ở Claude Levi-Strauss, lý thuyết về huyền thoại và văn hoá dân gian nói chung; ở Vladimir Propp và đặc biệt, ở A. J. Greimas, lý thuyết về truyện dân gian; ở Roman Jakobson, lý thuyết về sự chuyển hoá từ trục lựa chọn sang trục kết hợp và từ phong cách ẩn dụ sang phong cách hoán dụ trong thơ; ở Jonathan Culler, lý thuyết về khả lực competence và tính khả thức intelligibility của văn học, tức những điều kiện và quy luật chi phối cách thức diễn dịch để chúng ta có thể hiểu và cảm các tác phẩm văn học, bằng cách đó, nới rộng phạm vi của khái niệm cấu trúc nó không chỉ nằm trong tác phẩm mà còn nằm cả trong động tác diễn dịch của người đọc. Xem cấu trúc và ngữ pháp’ văn chương là đối tượng khảo sát và phân tích chính, cấu trúc luận vượt hẳn các lý thuyết văn học trước nó về tính khoa học’ với những nguyên tắc mang tính phương pháp luận cụ thể, một hệ thống khái niệm rõ ràng, một khả năng ứng dụng gần như vô giới hạn. Tuy nhiên, khi chọn trọng tâm nghiên cứu như vậy, cấu trúc luận cũng đồng thời bỏ qua các tác phẩm và tác giả cụ thể. Hậu quả là, một, do mọi người mải mê đi tìm những quy luật và quy ước phổ quát, lãnh vực phê bình thực hành tương đối yếu; hai, khi lược quy mọi hình thức diễn ngôn vào một hệ thống ký hiệu, ranh giới giữa tính văn chương và tính phi văn chương bị xoá nhoà, một mẩu quảng cáo, do đó, cũng có ý nghĩa tương đương với một kiệt tác; ba, bị hạn chế trong cách nhìn đồng đại, dưới mắt các nhà cấu trúc luận, mọi cái viết đều không có khởi nguồn, do đó, họ không đặt ra vấn đề đánh giá về tính độc sáng của bất cứ một văn bản nào với họ, mọi văn bản đều hình thành từ những gì đã được viết trước đó cả rồi. Nói cách khác, cấu trúc luận có những đóng góp giới hạn trong cả lãnh vực phê bình lẫn lãnh vực văn học sử. Phần còn lại, nơi cấu trúc luận có nhiều thành tựu nhất, là lý thuyết, nhưng lý thuyết của cấu trúc luận chủ yếu là lý thuyết diễn dịch hơn là lý thuyết mỹ học, do đó, tuy cấu trúc luận được xem như một trào lưu rộng lớn nhưng nó lại thiếu những chiều sâu triết học cần thiết để có thể thúc đẩy quá trình vận động của văn học. Nói cách khác nữa, khối lượng kiến thức đồ sộ mà các nhà cấu trúc luận tích luỹ được trong lãnh vực nghiên cứu văn học suốt hơn một thập niên hầu như chỉ giới hạn trong việc giúp người đọc hiểu sâu sắc những điều kiện hình thành văn chương hơn là chính bản thân văn chương. Tài liệu tham khảo thêm Structuralist Poetics Structuralism, Linguistics, and the Study of Literature của Jonathan Culler 1975, Ithaca Cornell University Press; Writing Degree Zero của Roland Barthes 1967, A. Lavers và C. Smith dịch sang tiếng Anh, London Jonathan Cape, bản dịch tiếng Việt của Nguyên Ngọc phổ biến trên website Introduction to Poetics của Tzvetan Todorov 1981, Richard Howard dịch sang tiếng Anh, Brighton Harvester Press; Structuralism in Literature, an Introduction của Robert Scholes 1974, New Haven Yale University Press. Bằng tiếng Việt, có Chủ nghĩa cấu trúc và văn học do Trịnh Bá Dĩnh giới thiệu và dịch 2002, nxb Văn Học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học. Nguồn
các phương pháp phê bình văn học